TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:
-
ChủTrương
Phụng Vụ
Đăng Ký
Đăng Nhập
CHÀO MỪNG QUÝ VỊ ĐẾN VỚI TU ĐẠO TRUYỀN THÔNG CÔNG GIÁO VIỆT NAM HẢI NGOẠI
Suy Niệm: “Hoạt động Tông đồ là niềm vui hạnh phúc và lợi ích vĩ đại, là đồng trách nhiệm của người tín hữu Công Giáo, như chóp đỉnh cao cả nhất của mọi đặc ân, chúng ta được tháp nhập và tham dự vào ba thiên chức của Chúa Kitô là:"Tư tế, Tiên tri và Vương đế" mang trong mình sứ vụ loan báo "TIN MỪNG Cứu Độ CHÚA GIÊSU KITÔ" đến với nhân loại„. (Tu Đạo)

www.tu-dao.de

Niên Lịch Phụng Vụ Tháng 12 Năm A 2019-2020
01. 12. 2019 PHỤNG VỤ NĂM A CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG

!!!Bạn Đăng Ký Làm "THÀNH VIÊN" Sẽ Có Nhiều Quyền Lợi và "Sẽ Không Thấy Quảng Cáo"!!!

Trang 1 trong tổng số 1 trang
TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ: Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:  Icon_minitimeSun Nov 24, 2013 6:06 am
huongmuadong
DIỄN ĐÀN
TU ĐẠO VIỆT NAM
huongmuadong
Tước hiệu
Điều Hợp Viên
Điều Hợp Viên
online
online

Bài gửiTiêu đề: TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:

TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:
TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ: (1) Sứ Vụ Của Tình Yêu

1.

SỨ VỤ CỦA TÌNH YÊU

Trở thành tu sĩ là tự nguyện thực hiện một cam kết tình yêu với Thiên Chúa. Đời sống tu trì tự bản chất là một ơn gọi để yêu thương, do đó cũng như toàn bộ cuộc đời của Đức Giêsu, sứ vụ tiên quyết của các tu sĩ là loan báo vương quốc tình yêu của Thiên Chúa: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”(Ga 20,21). Tất cả những suy tư dưới đây để xoay quanh chủ đề tình yêu là sứ vụ hay mọi sứ vụ trong đời tu đều phát xuất từ tình yêu. Và nói cho cùng, sứ vụ đó không gì khác hơn là loan báo Tin Mừng cho anh chị em đồng loại.

1- Ơn gọi tình yêu

Đời tu là một lời mời gọi bước theo Đức Kitô để trở thành chứng nhân cho tình yêu vô biên, mà mình đã lãnh nhận và cam kết trao ban cho tha nhân. Nghi thức tuyên khấn nói rõ ý tưởng căn bản này. Trước khi tuyên khấn, chủ tế công khai hỏi các khấn sinh: quý anh chị xin gì với Chúa, với Giáo hội và cộng đoàn. Câu trả lời của các khấn sinh bộc lộ khát vọng sâu thẳm của người tu hành cũng như của tất cả các Kitô hữu: xin tình yêu của Chúa và của anh chị em.

Trở thành tu sĩ là cam kết làm người lữ hành của tình yêu, với ước nguyện sâu xa được trở nên chứng nhân của Đấng là tình yêu, bởi vì theo thánh Gioan “Thiên Chúa là tình yêu, và bất cứ ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên Chúa và Ngài ở trong người ấy” (1Ga 4,16). Từ đó, câu kết luận hiển nhiên sẽ là: yêu thương chính là sứ vụ của tu sĩ nói riêng và của tất cả các Kitô hữu nói chung. Hơn nữa đây là một lời mời gọi từ muôn thuở, thật độc đáo và bất khả thay thế.

Cuộc đời và hoạt động của một số nhân vật trong Kinh Thánh giúp chúng ta hiểu rõ hơn lời mời gọi này. Ngôn sứ Giêrêmia có cảm nghiệm hết sức đặc biệt về sứ vụ này, một sứ vụ không những ông chẳng hề mơ tưởng hay nguyện xin, mà hơn nữa đã gây hãi hùng, khiếp sợ và khốn khổ cho bản thân ông. Nhưng Thiên Chúa lại quả quyết với ông rằng đây là một ơn gọi đặc biệt, hiện hữu ngay từ trong lòng mẹ. Nó ẩn chứa một tình yêu nhưng không và một thứ chọn lựa thần thiêng mang dáng dấp tiền định: “Có lời Đức Chúa phán với tôi rằng / Trước khi cho người thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi / trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi/ Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Gr. 1,4-5).

Tác giả phần thứ II của sách Isaia lại dùng ơn gọi từ trong lòng mẹ này để diễn tả phẩm tính “người Tôi Trung” được Thiên Chúa tuyển chọn từ muôn thuở để đi tiên phong và nêu gương cho muôn người tiến tới: “Đức Chúa đã gọi tôi từ trong lòng mẹ / lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi (…). Giờ đây Đức Chúa lại lên tiếng. / Người là Đấng đã nhào nặn ra tôi / từ khi tôi còn trong lòng mẹ / để tôi trở thành người tôi trung… / Thế nên tôi được Thiên Chúa trân trọng / và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi”.

Khi hiện ra với Zacaria trong đền thờ Giêrusalem, sứ thần của Thiên Chúa cũng lấy lại những hình ảnh ở trên để trình bày con người và sứ vụ vô tiền khóng hậu của Gioan Tẩy Giả. Sứ thần nói: “Ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã tràn trề Thánh Thần (…). Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Elia, em sẽ đi trước nhan Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ ngịch lại hướng về nẻo chính đường ngay và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón rước Chúa” (Lc 1,15-17).

Trong thư gửi giáo đoàn Galat, thánh Phaolô cũng đã dùng chính những hình ảnh này để minh chứng sứ mạng Tông đồ dân ngoại của mình: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ và đã gọi tôi nhờ ơn sủng của Người. Người đã đoái thương mạc khải Con của Người cho tôi để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại” (Gl 1, 15-16).

Theo truyền thống Do Thái, các kinh sử nổi tiếng thường mở trường dạy học và các đồ đệ thường chọn lựa sư phụ hay môn phái mình ưa thích để theo học. Tin Mừng Nhất lãm nêu rõ nét độc đáo trong tương quan thầy trò nơi mái trường của Đức Kitô. Chính Đức Giêsu đã quả quyết rõ rệt vai trò chủ động của Ngài trong việc tuyển chọn môn đệ: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15, 16). Mọi sáng kiến và đề nghị đến từ Thiên Chúa. Do đó, Đức Giáo chủ Phanxicô có lý để kết luận rằng “không phải sáng kiến, cho dù mục vụ đến đâu chăng nữa, không phải những cuộc gặp gỡ hay các kế hoạch – cho dù rất hữu ích – bảo đảm thành quả, nhưng chính là sự trung tín với Đức Kitô”.

Trải qua bao ngàn năm lịch sử những lời Thiên Chúa mời gọi ngôn sứ Giêrêmia, Isaia, Gioan Tẩy giả, Phaolô Tông Đồ… một cách nào đó đã được sử dụng để diễn tả mối tương quan mầu nhiệm giữa Thiên Chúa với toàn thể Dân Chúa ngày xưa và ngày nay. Chúa yêu thương và mời gọi mỗi người một cách đặc biệt. Trong con mắt và trong chương trình của Thiên Chúa mỗi người chúng ta có một vai trò và một chỗ đứng bất khả thay thế. Từ ngày 11-9 năm 2001 đến nay người ta nói nhiều đến cái vân tay. Để làm visa vào Hoa Kỳ và các nước tiên tiến… bó buộc phải lấy vân tay. Cái vân tay tiu tiu này nào có quan trọng và nhiều nhặn gì đâu, thế mà cho đến nay hơn 7 tỉ người trên thế giới vẫn chưa thấy cái nào giống cái nào. Nếu cái vân tay tiu tiu và chẳng là cái thá gì mà Chúa đã nâng niu và hết sức chăm chút để làm sao mỗi cái một vẻ, mười phân vẹn mười và không có sự trùng lập… thì Ngài còn chăm sóc và yêu thương mỗi con người, mỗi tâm hồn đến đâu?

Ngay trong những hàng đầu tiên của thông điệp “Thiên Chúa là tình yêu”, Đức Giáo chủ Biển Đức XVI đã xác định: “Chúng ta đã tin vào tình yêu Thiên Chúa: Kitô hữu có thể diễn tả quyết định căn bản của đời mình như thế. Trở thành Kitô hữu không phải do kết quả của một chọn lựa luân lý hay một lý tưởng cao đẹp nào khác, mà là gặp gỡ với một biến cố, một con người; một cuộc gặp gỡ đem đến cho cuộc sống một chân trời mới và qua đó một hướng đi có tính quyết định. Tin Mừng theo thánh Gioan diễn tả biến cố này bằng những từ ngữ thâm sâu: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì … được sống muôn đời” (Ga 3,16). Khi chọn lựa vị thế trung tâm của tình yêu, đức tin Kitô giữ lại phần nòng cốt của niềm tin Do Thái, đồng thời đem lại cho nó một chiều sâu và một chiều rộng mới.… Bởi vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước (x Ga 4,10), do đó, tình yêu bây giờ không chỉ là một “giới răn”, mà là lời đáp trả hồng ân tình yêu qua đó Thiên Chúa gần gũi với chúng ta”

Kể từ khi Thiên Chúa, Đấng do tình yêu thúc bách, đã sai Con yêu dấu của Ngài đi vào trần gian để cứu chuộc con người, thì tất cả những ai đã lãnh nhận hồng ân yêu thương của Ngài phải trở thành chứng nhân tình yêu giữa lòng nhân loại. Trong Kinh Thánh, hồng ân luôn gắn liền với trách nhiệm và sứ vụ. “Vì thế, yêu thương là công tác phục vụ mà Giáo hội luôn luôn phải thực hiện nhằm xoa dịu những nỗi đau và nhu cầu của con người, kể cả các nhu cầu vật chất”.

Ơn gọi Đa Minh đồng thời là một hồng ân và một sứ vụ. Sứ vụ này không gì khác hơn là dấn thân loan báo “Thiên Chúa là tình yêu”. Đó chính là nội dung của chia sẻ, suy nghĩ và cầu nguyện của chúng ta trong tuần này.

2- Sứ vụ phát sinh từ Tình yêu

Sứ vụ yêu thương của tất cả các Kitô hữu đều xuất phát từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng là tình yêu (1 Ga 4:16). Do tình yêu nhưng không và vô bờ bến, Thiên Chúa đã “ban Con Một cho nhân loại, để ai tin vào Con của Người thì … được sống muôn đời”. Vì thế sứ vụ của Giáo hội thực ra chỉ là loan báo và cố gắng tiếp tục thực hiện những gì Thiên Chúa đã thực hiện và đang hoàn thành để tình yêu của Ngài vươn ra toàn thế giới..

Khi “thời gian tới hồi viên mãn” (Gl 4:4) Thiên Chúa trong tình yêu đã sai Con của Ngài đến ở giữa chúng ta (x. Ga 3:16). Đức Giêsu là Đấng được Chúa Cha “sai đến”. Ngài là “ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người (…). Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Ngài, thì Ngài cho họ trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,9.12). Như vậy, sứ vụ thuộc về căn tính của Đức Giêsu và của Giáo Hội mà Ngài đã thiết lập.

Đức Giêsu “lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (Mc 3,14). Cuộc đời của người môn đệ Đức Kitô đã được gắn chặt với sự vụ: Chúa gọi là để sai đi. Nếu tất cả các Kitô hữu đều phải tham dự vào sứ mệnh của Thiên Chúa, thì do lời khấn các tu sĩ Đa Minh được tham dự một cách đặc biệt hơn. Sứ vụ này được thực hiện do tình yêu thương Thiên Chúa ban cho chúng ta và hợp nhất chúng ta với Đức Kitô, rồi sai chúng ta đến với người khác để chúng ta mang lại hoa trái (Ga 15:17). Cùng với thánh Phaolô chúng ta phải hô to rằng: “Tình yêu của Đức Kitô thôi thúc chúng tôi (…). Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cor 5, 14-15). Chính tình yêu ấy thúc đẩy chúng ta không những phải ra khỏi tháp ngà hẹp hòi, thế giới ích kỷ, cuộc sống an nhàn, mà nhiều khi còn phải rời bỏ quê cha đất tổ để tìm kiếm tha nhân trong tình yêu và loan báo Tin Mừng cứu độ cho họ.

Hơn bao giờ hết, tu sĩ Đa Minh chúng ta cần đào sâu căn tính truyền giáo của mình để không chỉ mãn nguyện với công tác mục vụ giáo xứ cổ điển mà thôi. Trong Lời nguyện phong chức, Đức Giám mục khẩn cầu: “Xin cho các thầy trở nên cộng tác viên tốt của hàng Giám mục chúng con, để Tin Mừng do cac thầy loan báo, nhờ ơn Thánh Thần, sinh hoa kết quả trong lòng người ta và vang dội đến tận cùng trái đất”. Thật vậy, dưới tác động của Thánh Linh, Đấng là khởi nguyên của mọi ơn gọi và đặc sủng, cuộc sống linh mục tự bản chất là một sứ vụ, cũng như cả cuộc đời của Đức Giêsu là sứ vụ loan báo Tin Mừng cứu độ. Phải chăng mỗi người chúng ta cần có cùng tâm nguyện và niềm hăng say của thánh Phaolô thuở xưa để có thể nói lên: “Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi” (1 Cor 9, 16-18). Và vì Tin Mừng, ngài đành chấp nhận trở nên mọi sự cho mọi người, hầu chinh phục được nhiều người hơn.

Bằng nhiều cách thế khác nhau, Thiên Chúa luôn đi trước Giáo hội và các nhà truyền giáo trong việc yêu thương con người, bởi vì Thiên Chúa hiện diện trong sứ vụ yêu thương ngay từ khi sáng tạo. Chúng ta thường nghĩ rằng những truyền thống tôn giáo khác với Do Thái giáo và Kitô giáo chỉ là những cách thế, những nỗ lực, và sự phấn đấu của con người để gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng có lẽ chúng ta sẽ đến gần sự thật hơn khi chúng ta nhận ra rằng những truyền thống đó, cho dù có những giới hạn nhất định, cũng là những cách thế và phương tiện mà Thiên Chúa, trong tình yêu khôn tả của Ngài, đã sử dụng để tiếp cận với con người. Phải chăng chúng ta được mời gọi khám phá mầu nhiệm và vẻ đẹp muôn màu của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, vượt trên những gì chúng ta vốn quen lặp đi lặp lại theo lối mòn của truyền thống?

Công đồng Vatican II xác quyết rằng ơn cứu độ của Thiên Chúa không những bao hàm tất cả những ai nhận biết Đấng Tạo Hóa, mà còn nới rộng tới những ai vô tình chưa nhận biết Thiên Chúa một cách rõ rệt, nhưng tìm kiếm Ngài với tâm hồn chân thành và dưới sự hỗ trợ của ân thánh Chúa cố gắng sống một cách chính trực theo sự hướng dẫn của lương tâm. Văn phòng cho những người không thuộc về Kitô giáo (1984) đã đúc kết và khai triển những giá trị tích cực của các tôn giáo khác: Các nghị phụ của Công đồng xác quyết rằng, trong truyền thống tôn giáo không Kitô giáo, có những điều chân thiện” (LG.16), những yếu tố quí báu, tâm linh và nhân bản (GS. 92), những truyền thống chiêm niệm (AG.9), các hạt giống của Ngôi Lời (AG.11,15), một tia sáng của Chân lý chiếu soi mọi người (NA.2).

Đóng góp đặc biệt nhất của giáo chủ Gioan Phaolô II cho nền thần học về các tôn giáo có lẽ là xác quyết sự hiện diện tích cực của Thánh linh trong đời sống tâm linh của tín đồ các tôn giáo khác. Ngay trong thông điệp đầu tiên Đấng Cứu độ nhân loại (1979), ngài tự vấn: Phải chăng một vài lần niềm tin kiên cường của tín dồ các tôn giáo khác mà thực sự niềm tin này cũng phát xuất từ Thánh Thần chân lý, Đấng tác động ngay cả bên ngoài ranh giới hữu hình của Nhiệm tích- làm cho người Kitô hữu phải hổ thẹn, bởi vì thường xuyên nghi ngờ chân lý do Thiên Chúa mạc khải và được Giáo hội loan truyền”“

Trong thông điệp Chúa Thánh Thần (Dominum et vivificantem) (1986), Đức Gioan Phaolô II tái xác nhận hoạt động phổ quát của Thần khí từ trước biến cố cứu độ của Đức Giêsu Kitô và ngay ở bên ngoài phạm vi của Kitô giáo: “Không thể nào tự giới hạn nơi hai ngàn năm sau cùng, kể từ biến cố Giáng sinh của Đức Giêsu. Cần phải ngược dòng thời gian, ôm choàng tất cả hoạt động của Thánh linh từ trước biến cố Đức Kitô ngay từ khởi thủy trong toàn thế giới và đặc biệt trong lịch sử cứu độ của Cựu ước. Thực vậy tác động của Thánh linh được thể hiện ở mọi thời, mọi nơi và trong mọi người, theo chương trình cứu độ phổ quát, qua đó hoạt động của Thánh linh được nối kết chặt chẽ với mầu nhiệm nhập thể và cứu thế (...). Tuy nhiên chúng ta cũng phải nhìn xa hơn và rộng hơn, khi biết rằng gió muốn thổi đâu thì thổi (Ga 3,Cool. Công đồng Vatican II, chú trọng đặc biệt ở đề tài Giáo hội, nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Thánh linh cũng hoạt động ở bên ngoài thân thể hữu hình của Giáo hội. Công đồng công nhận Thánh linh hoạt động nơi tất cả tâm hồn thiện chí (GS.22) chứ không chỉ nơi các Kitô hữu mà thôi »(số 53).

Với ơn gọi và sứ vụ trở thành con người loan báo Tin Mừng đó, chắc chắn chúng ta cần đặt lại một số tiêu chuẩn hoạt động, cách thế sống, đường quản trị và chọn lựa mục vụ: tu sĩ Đa Minh sẽ không thể chỉ là một nhà giáo, một nhà lãnh đạo, một mục tử, một người chỉ huy hay ra lệnh, mà trước hết và trên hết phải là một con người của Tin Mừng, một người được sai đến với người khác, sống toàn tâm toàn ý cho người khác trong tình yêu và trong sứ vụ loan báo Tin Mừng cứu độ cho họ. Cũng như Chúa Giêsu hôm xưa, phải chăng tu sĩ Đa Minh hôm nay cũng phải tất tưởi ngược xuôi lên đường tìm những con chiên lạc? Dĩ nhiên, hôm nay chẳng ai hiểu câu nói “bỏ 99 con chiên không lạc” để lên đường đi tìm một con chiên lạc theo nghĩa đen. Thách đố hôm nay không phải chỉ một mình người mục tử đi tìm con chiên lạc, mà làm sao “tất cả 99 con chiên không lạc” ý thức sứ vụ loan báo Tin Mừng và dấn thân cho sứ vụ đó.

3- Trở thành những người Truyền giáo ngày nay

Nếu loan báo Tin Mừng trước hết là gắn liền với Thiên Chúa và với những gì Ngài thực hiện cho thế gian vì yêu thương thì nguồn lực thiêng liêng đầu tiên của những người truyền giáo là kinh nghiệm cá nhân của họ về tình yêu của Thiên Chúa. Họ phải cảm nghiệm được Thiên Chúa trong những đường lối mầu nhiệm của chính Ngài đã chạm tới họ một cách cá vị, đã ấp ủ họ trong tình yêu của Ngài và làm cho họ trở thành người được Ngài tuyển chọn. Không có kinh nghiệm nền tảng về Thiên Chúa thì người thừa sai sẽ rất khó có thể đến với người khác trong yêu thương. Hơn thế nữa, họ cũng có thể rất khó để nhận ra tình yêu của Thiên Chúa luôn sống động và đang hoạt động trong cuộc đời của người khác nữa. Vì thế, sứ vụ trước hết là vấn đề chúng ta được Thiên Chúa yêu thương nhiều biết chừng nào!(xem phụ lục số 5).

Khi Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong sứ vụ, thì trước tiên chúng ta cần Phúc âm hóa chính bản thân, phải trở thành những con người của Tin Mừng, thấm nhuần tinh thần Bát Phúc. Thiên Chúa và công việc của Ngài phải chiếm vị trí trung tâm trong cuộc sống, suy nghĩ và hoạt động của chúng ta. Chúng ta luôn được mời gọi trở nên nhạy cảm hơn trước sự linh ứng, hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa trong thế giới hôm nay. Có thể nói, người thừa sai hôm nay phải là những con người tâm linh. Nếu không, không những chúng ta khó nhận diện những dấu chỉ thời đại, mà hơn nữa có nguy cơ nghĩ rằng sứ vụ trước hết hệ tại những chương trình, kế hoạch và khả năng nhân loại, nghĩa là những gì chúng ta làm, hơn là những gì Thiên Chúa thực hiện ngang qua chúng ta.

Không phải vô lý khi nhiều người cho rằng người loan báo Tin Mừng hôm nay cần đặt nền nơi chiêm niệm và đời sống tâm linh. Chiêm niệm giúp chúng ta cắm rễ sâu trong Thiên Chúa và mài gũa nhận thức của ta về tình yêu bao la của Thiên Chúa đối với nhân loại và thế giới. Hơn nữa, chiêm niệm thúc đẩy chúng ta tham gia vào hoạt động của Thiên Chúa như trong câu nói rất hay của cha Yves Congar, OP “vì thế tôi có thể ở nơi mà Thiên Chúa chờ đợi tôi, là cầu nối giữa hoạt động của Thiên Chúa và thế giới”.

Đây phải là lý do tại sao ngày nay người ta nhấn mạnh đến vai trò của chiêm niệm trong sứ vụ. Như Đức Gioan Phaolo II đã viết : “Một nhà truyền giáo mà không có kinh nghiệm sâu sắc về Thiên Chúa qua kinh nguyện cầu nguyện và chiêm niệm, thì sẽ có ít ảnh hưởng thiêng liêng hay thành công về mặt truyền giáo. Đây là một suy tư rút ra từ thừa tác vụ linh mục của riêng tôi và, như tôi đã viết nơi khác, sự tiếp xúc của tôi với các đại diện những truyền thống thiêng liêng không Kitô giáo, nhất là của Á Châu, đã củng cố tôi trong xác tín rằng tương lai của công cuộc loan báo Tin Mừng tùy thuộc phần lớn vào việc chiêm niệm.”

Nhân ngày Thế giới Loan báo Tin Mừng năm 2011, Đức Giáo chủ Biển Đức XVI viết: “Thế giới ngày nay đang cần những người nói với Thiên Chúa để có thể nói về Thiên Chúa… Anh chị em hãy thông truyền cho mọi người niềm vui Đức tin cùng với lòng nhiệt thành hăng hái đến từ cuộc sống được Chúa Thánh Linh thúc đẩy, vì chính Chúa canh tân mọi sự (…). Hãy tỉnh thức, sẵn sàng để nhận diện khuôn mặt của Đức Kitô và chạy đến với anh chị em của chúng ta với tin vui: Chúng tôi đã nhìn thấy Chúa”.



Vì tham dự vào sứ vụ của Thiên Chúa bằng việc trở thành cầu nối cho hành động yêu thương của Ngài trong thế giới, nên nhân đức căn bản nhất đối với các nhà truyền giáo là đức ái Kitô giáo. Chỉ có một đức ái duy nhất, đó là yêu Chúa và yêu con người. Cả hai điều đó tạo thành một hoạt động duy nhất của tình yêu Thiên Chúa. Nhà truyền giáo được gọi để trở thành một người biết yêu thương. Chỉ người biết yêu mới có thể chia sẻ một cách có hiệu quả tình yêu của Thiên Chúa đối với người khác. Điều này giả định rằng người đó phải hướng tới và được biến đổi nhờ tình yêu vô điều kiện của Chúa dành cho nhân loại và thế giới.

Dĩ nhiên đức ái là hồng ân của Thiên Chúa, nhưng để ân sủng này có hiệu lực trong cuộc sống của chúng ta, nơi chúng ta cần phải có một khả năng tương ứng để yêu thương, tình yêu này được gọi là tình bạn. Theo thánh Tôma Aquino mối tương quan tinh yêu giữa chúng ta với Thiên Chúa mang bản chất “tình yêu - bằng hữu”. Đức ái là tình yêu bằng hữu của Thiên Chúa dành cho chúng ta và tình yêu bằng hữu của chúng ta dâng lên Thiên Chúa. Đức Giêsu yêu thương và gọi chúng ta như là “bạn hữu” của Ngài và đòi chúng ta “yêu thương nhau” (“như Ngài đã yêu thương chúng ta”) như bạn hữu (Ga 15:14-17). Do đó, theo cha Quirico Pedregosa, “kết bạn với” người khác chính là “trái tim của sứ vụ”. Bằng tình yêu bằng hữu của mình, các nhà truyền giáo có thể lôi kéo nhiều tâm hồn đến với Đức Kitô, hơn là bất kỳ điều gì khác!

4- Thi hành sứ vụ yêu thương tại Á châu

Đức cố Giáo chủ Gioan Phaolô II ca ngợi chương trình cứu độ kỳ diệu của Thiên Chúa tại châu Á và hy vọng trong ngàn năm thứ ba này có thể thu hoạch một mùa gặt bội thu về niềm tin nơi lục địa mênh mông này. Nhưng ngài cũng ý thức rằng tại lục địa Á châu “đang đặt ra một cách khẩn thiết vấn đề gặp gỡ giữa Kitô giáo với các nền văn hóa và tôn giáo rất lâu đời ở địa phương”. Cũng chính tại lục địa quê hương của Đức Giêsu, Giáo hội còn phải đối diện với tình trạng bất công xã hội, hố phân cách giàu nghèo và các thể chế chính trị độc tài hay thiếu dân chủ. Đặc biệt, so với các vị giáo tổ khác, Đức Kitô là vị giáo tổ ít được nhận biết nhất và có ít tín đồ nhất nơi quê hương của mình. Vấn đề đối thoại vừa là một nhu cầu cấp bách, vừa là một thách đố gay gắt nhất.

Trên tất cả, việc đối thoại đòi hỏi một sự cởi mở để học hỏi lẫn nhau. Người ta hỏi một thừa sai đã có 49 năm loan báo Tin Mừng tại Nhật Bản một lời khuyên dành cho sẽ loan báo Tin Mừng tại Á châu. Cha chỉ đưa ra một câu trả lời ngắn gọn: “Đi truyền giáo không phải để dạy dỗ nhưng là để kiên nhẫn học hỏi”. Phải chăng đây cũng là một điều kiện tất yếu và trước hết của đối thoại? Phải chăng chúng ta phải kiên nhẫn nghiên cứu điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị và tôn giáo của vùng đất này để khám phá chương trình cứu độ mà Đức Kitô muốn thực hiện nơi quê hương của Ngài?

Chính Đức Giêsu là mẫu mực tuyệt vời nhất. Tin Mừng cho chúng ta thấy khi Con Thiên Chúa được sai đến với chúng ta vì tình yêu dành cho thế gian (ở trong sứ vụ) (Ga 3:16) Ngài đã biểu lộ sự tôn trọng lớn lao đối với sự khác biệt của chúng ta. Ngài “trở thành xác phàm” và “cắm lều giữa chúng ta” (Ga 1:14). Ngài “đã vét rỗng chính mình” và “trở nên giống phàm nhân” (Pl 2:6-7); Ngài đến “không phải để được người ta phục vụ , mà để phục vụ” chứ (Mc 10:45) và Ngài đã “hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Thực sự, Ngài đã đi một chặng đường dài để đón nhận sự khác biệt của chúng ta. Trong cuộc sống và cả cái chết, Ngài hoàn toàn “trút bỏ” địa vị ngang hàng Thiên Chúa để hiến dâng trọn vẹn chính mình cho loài người chúng ta. Bằng hành động đón nhận một cách yêu thương sự khác biệt của chúng ta, Ngài đã cứu chuộc chúng ta và trao tặng sự sống cho thế giới.

Cũng như Thày ngày xưa, tại Châu Á huyền bí và phức tạp này,”nơi mà dân chúng được thuyết phục do đời sống thánh thiện hơn là do lý lẽ trí thức”, chúng ta chỉ thực hiện công tác loan báo Tin Mừng cách tốt nhất bằng chính đời sống chứng nhân. “Một ngọn lửa chỉ được cháy lên bằng cái gì đã bén lửa”. Cách thế hiệu quả nhất của người Kitô hữu để chia sẻ niềm tin của mình với những người châu Á khác đó là thái đố yêu thương, khiêm tốn, chân thành, thấm đượm đức tin, đức mến. Những nhà truyền giáo bị thách thức để trở thành những chứng nhân đáng tin cây về tình yêu Thiên Chúa. Lời chứng tốt nhất mà họ có thể đưa ra đó là phẩm chất của những hành động yêu thương và những mối tương quan của họ đối với tất cả những ai mà họ gặp gỡ.

Để canh tân các sứ giả Tin Mừng để phục vụ công cuộc Tân Phúc âm hóa tại châu, Sứ điệp Hội nghị toàn thể lần thứ X của Liên Hội đồng giám mục Á châu đề nghị một số chiều kích cơ bản sau đây:

1. Gặp gỡ cá nhân với Đức Giêsu Kitô. Để có thể chạm đến cái hồn của châu Á và trở thành sứ giả mới của Tin Mừng, chúng ta cần có một đức Tin sống động, được xây dựng trên nền tảng cuộc gặp gỡ sâu xa, cá vị và có sức biến đổi, với con người sống động của Đức Giêsu Kitô. Chính cuộc gặp gỡ này biến đổi bản thân chúng ta, làm cho ta trở nên môn đệ của Ngài trong lời nói và việc làm.

2. Say mê sứ vụ. Nếu chúng ta có mặt là để thi hành sứ vụ, thì chúng ta cần phải có niềm say mê sứ vụ. Lời Thánh Phaolô: “Tình yêu Ðức Kitô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5, 14) Chân phước Gioan Phaolô II khẳng định: “Một ngọn lửa chỉ có thể được thắp lên bởi chính một vật đang cháy lửa… (chúng ta) phải cháy lửa tình yêu Chúa Kitô và lửa nhiệt thành mong ước làm cho Đức Kitô được nhiều người nhận biết hơn, yêu mến hơn, bước theo sát Người hơn” (EA, số 23). Sứ vụ Tân phúc âm hóa đòi hỏi phương pháp, ngôn ngữ, cách thế và nhiệt thành mới.

3. Tập trung vào Nước Thiên Chúa. Linh đạo của sứ giả Tân Phúc âm hóa tập trung vào Nước Thiên Chúa, nhưng không tách thế giới của chúng ta khỏi Triều đại của Thiên Chúa, đời sống vật chất khỏi tôn giáo, cũng không làm cho đời sống đức Tin xa lìa nghĩa vụ làm thay đổi đời sống chính trị và kinh tế xã hội.

4. Quyết tâm hiệp nhất. Như Chúa Giêsu, những nam nữ thừa sai Tân Phúc âm hóa cần phải sống và cổ võ sự hiệp thông. Quả thật, linh đạo hiệp thông chính là linh đạo của Tân Phúc âm hóa. Vì thế đây phải là phương châm của chúng ta: “hiệp thông vì sứ vụ” và “sứ vụ vì hiệp thông” (EA, số 25). Các sứ giả Tin Mừng sẽ gặt hái kết quả hữu hiệu khi sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, với nhau và với mọi thụ tạo.

5. Công cuộc Tân Phúc âm hóa kêu gọi lấy tinh thần đối thoại thúc đẩy cuộc sống hằng ngày và chọn tương quan hòa hợp chứ không đối đầu. Đặc trưng của đối thoại là khiêm tốn nhận ra sự hiện diện kín đáo của Thiên Chúa trong cuộc tranh đấu của người nghèo, trong sự phong phú về văn hóa của nhân dân, trong sự đa dạng về truyền thống tôn giáo và trong thẳm sâu cõi lòng mỗi người. Đối thoại trở thành nền tảng cho nền linh đạo hiệp thông nhằm canh tân sứ giả Tin Mừng.

6. Hiện diện khiêm hạ. Chúng tôi tin rằng mỗi người châu Á đều dự phần và đồng hành trong cuộc hành trình tiến đến Nước Thiên Chúa, và tin rằng những cánh đồng truyền giáo là những thửa đất có sự hiện diện và hoạt động lạ lùng của Thánh Thần Thiên Chúa. Trên cánh đồng truyền giáo bao la tại châu Á, chứng từ lặng lẽ nhưng hùng hồn của đời sống Kitô hữu đích thực đòi phải biết hiện diện trong khiêm hạ, biết sống đối thoại, trong đó bao gồm cuộc sống cầu nguyện và “chiêm niệm”. Đó là yêu cầu đặt ra cho các sứ giả mới của Tin Mừng, hoạt động giữa những nền văn hóa đề cao sự bỏ mình và quý trọng cầu nguyện. Sự hiện diện khiêm hạ phải được thể hiện bằng nếp sống giản dị và liên kết với người nghèo.

7. Vai trò ngôn sứ của người truyền giáo. Trở nên ngôn sứ là trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần, nhận diện những nghịch lý tại châu Á và tố cáo bất cứ những gì làm suy yếu, hạ thấp giá trị và tước bỏ phẩm giá của con cái Thiên Chúa. Những sứ giả mới của Tin Mừng phải bảo vệ phẩm giá làm người của tất cả mọi người, nhất là của phụ nữ, trẻ em và những người không có đủ điều kiện sống cho ra con người trong xã hội châu Á chúng ta. Qua việc tố cáo bất công, những sứ giả mới của Tin Mừng loan báo tình yêu của Thiên Chúa, “những điều quan trọng hơn trong Lề Luật” tức là là công bình, lòng nhân từ và thành tín (Mt 23, 23), và tình yêu được Chúa Giêsu dành ưu tiên cho người nghèo.

8. Liên đới với những nạn nhân. Hội nghị đã lưu ý con số các nạn nhân của quá trình toàn cầu hóa, của bất công, của thảm họa hạt nhân và thiên tai, của những cuộc tấn công do những kẻ cực đoan và khủng bố gây ra, con số ấy đang gia tăng từng ngày. Chúa Giêsu đứng về phía nạn nhân của các thảm họa và bất công. Người liên đới với những ai bị xã hội loại bỏ. Liên đới và xót thương những nạn nhân và tất cả những ai bị gạt ra ngoài lề xã hội phải trở thành chiều kích chính yếu của linh đạo Tân Phúc âm hóa.

9. Chăm sóc tạo thành. Hội nghị cũng đã lưu ý việc lạm dụng thiên nhiên vì lợi ích kinh tế thiển cận và ích kỷ. Con người là nguyên nhân chính đã góp phần làm cho trái đất nóng lên và khí hậu thay đổi, khiến người nghèo và người bị bóc lột phải hứng chịu những tác động bi đát hơn nữa. Quan tâm đến sinh thái, bảo toàn công trình tạo dựng và trách nhiệm với các thế hệ tương lai là yếu tố cơ bản trong linh đạo hiệp thông.

10. Can đảm sống đức Tin và tử đạo. Từ buổi đầu Kitô giáo có mặt đến nay, mảnh đất Á châu đã thấm máu đào của các vị tử đạo. Nếu ngày nay chúng ta được mời gọi hãy đem sự hy sinh cao cả mà làm chứng cho đức Tin, chúng ta sẽ không từ nan. Tuy nhiên, không thể manh động, khiêu khích… để trở thành cuồng tín và “tử vì dại”.

Sứ vụ Tân Phúc âm hóa đòi hỏi các nhà thừa sai mới phải phúc âm hóa bản thân, sống hoán cải sâu sắc, phải thay đổi tầm nhìn cũng như phải nên giống Đức Kitô trong tâm tư và thái độ, phó thác nơi Chúa, theo chân Chúa Giêsu từ trong tư tưởng, tình cảm đến hành động.

5- Tâm sự của một cựu linh mục.

Trên tờ Records của giáo phận Perth, Australia, có đăng lời tâm sự của một cựu linh mục, một nhà thần học sau gần 20 năm trong thiên chức linh mục, nay đã hoàn tục. Bài tâm sự này là một lời cảnh báo cho tất cả chúng ta không nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện hằng ngày.

“Không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Đức Kitô. Tôi xác quyết rằng dù sống hay dù chết, dù tù đày, bắt bớ, dù khốn cùng, quẫn bách. Không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Đức Kitô”.

Tôi đã nhiều lần gân cổ, mặt đanh lại khi hát những câu hát trên. Cứ tưởng như là chỉ cần gào to lên như vậy thì tôi sẽ đời đời sống trong lòng mến của Thiên Chúa. Thật ra, cũng không hoàn toàn là vô lý. Thật sự, đúng là tù đày, bắt bớ, khốn cùng, quẫn bách đã không tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa. Nhưng, đơn giản là vì những thứ ấy không xảy ra trên đất nước tự do này. Ai dám bỏ tù tôi, ai dám kỳ thị tôi, ngược đãi tôi vì tôi là người Công giáo, tôi kiện lên họ tới Tối Cao Pháp Viện chứ chơi à.

Tuy nhiên, đã có một thứ nhẹ nhàng hơn, êm ái hơn đã không chỉ tách tôi mà thực sự là “bứng” tôi hoàn toàn khỏi lòng mến của Thiên Chúa: một đời sống bận rộn và thiếu sự cầu nguyện.

Năm 1972, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ thần học ở Rôma, tôi đã nổi như cồn với tác phẩm đầu tay “Tiếng thở dài”. Cuốn sách trình bày những suy tư thần học về ý nghĩa của sự đau khổ trong kiếp nhân sinh này, đã được bề trên, các linh mục và anh chị em giáo dân đón nhận nhiệt liệt. Có những người viết thư cho tôi cho biết họ tìm lại được đức tin sau khi đọc cuốn sách đó. Họ tìm lại được lòng trông cậy vào Chúa và khen nức nở các ý kiến của tôi. Mỗi khi có chuyện không như ý, theo lời khuyên trong cuốn sách, họ cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, con biết Chúa hằng yêu thương con. Con phó thác mọi sự trong tay Chúa. Nhưng, lạy Chúa, qua chuyện không vui này, Chúa muốn nói với con điều gì ?

Khốn nạn thân tôi, trong khi khuyên người ta cầu nguyện, tôi càng ngày càng ít dành thời gian cho việc cầu nguyện. Tôi miệt mài trong các thư viện, cố viết hay hơn nữa, nhiều hơn nữa. Tôi tưởng tôi đã gặp được Chúa trong những suy tư thần học, cho nên tôi xao lãng đời sống cầu nguyện, tôi đã không thực hành chính những điều tôi nói và viết hằng ngày trên bục giảng và trong các tác phẩm của tôi. Có lẽ, tôi đã cho rằng cầu nguyện chỉ là hình thức cấp thấp dành cho những người bình dân. Siêu đẳng như tôi thì không cần. Càng ngày tôi cũng càng ít có giờ cho giáo dân và càng ngày tôi càng bướng bỉnh và kiêu căng với các đấng bề trên. Chuyện gì đến cũng đã đến. Tôi không muốn sa vào những phân tích vụn vặt. Điều tôi muốn nói với các bạn sau nhiều năm suy tư, sau những đêm dài không ngủ và trong sự hối tiếc chân thành của tôi là sự thật đơn giản này: Những hiểu biết sâu hơn về Thiên Chúa, nhiều hơn về Thiên Chúa không giúp giữ tôi trong lòng mến của Ngài. Chính đời sống cầu nguyện đơn sơ mà mẹ tôi tập cho tôi từ ngày còn bé mới giữ tôi lại trong tình yêu thương của Thiên Chúa.

Chẳng vậy, mà trong Phúc âm biết bao nhiêu lần chúng ta gặp câu này: “Sau đó, Người lui vào một nơi thanh vắng mà cầu nguyện”. Chính Chúa Con mỗi ngày còn cần đến sự cầu nguyện ở nơi thanh vắng để hiểu được ý Chúa Cha. Chúng ta là ai, tư cách gì, mà đòi có thể biết được ý Chúa qua trí khôn, qua sự xét đoán nông cạn của mình trong cái náo nhiệt, bận rộn của cuộc sống quay cuồng chung quanh.

Chẳng vậy, tất cả các lần Đức Mẹ hiện ra, Mẹ đã không nói gì nhiều hơn là lặp lại tiếng kêu gọi khẩn cấp hãy cầu nguyện đó sao. Chúng ta cũng nhìn thấy điều này nơi các Thánh mà chúng ta hằng tôn kính. Chính sự cầu nguyện đã giúp các Ngài nên Thánh

Tôi đặc biệt mong muốn lặp lại ở đây những điều Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 đã viết trong cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”.

Việc cầu nguyện vừa là tìm tòi Thiên Chúa, vừa là mặc khải Thiên Chúa. Nơi việc cầu nguyện của ta, Thiên Chúa tỏ rõ Ngài là Đấng Sáng Tạo và là Cha, là Đấng Cứu Chuộc và là Chúa Cứu Thế, là Thần Khí “dò thấu mọi sự, cả đến những gì sâu xa nhất của Thiên Chúa” (1 Cr 2, 10), cũng như dò thấu những gì bí mật của tâm hồn. Trong việc cầu nguyện, trước hết, Thiên Chúa tỏ ra Ngài là tình thương xót, nghĩa là một Tình yêu đi tới gặp con người đau khổ. Tình yêu này nâng đỡ, vực dậy và mời gọi chúng ta hãy tin tưởng”.

Trên tất cả mọi sự, tôi nhận rõ rằng chính việc thiếu một đời sống cầu nguyện đã giết chết ơn gọi Linh mục trong tôi”.

* Hãy trân trọng BÀI VIẾT và khích lệ NHẤN NÚT thay lời CẢM ƠN!

Nhấn In

TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:  Icon_minitimeSun Nov 24, 2013 6:07 am
huongmuadong
DIỄN ĐÀN
TU ĐẠO VIỆT NAM
huongmuadong
Tước hiệu
Điều Hợp Viên
Điều Hợp Viên
online
online

Bài gửiTiêu đề: Re: TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:

TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:
TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ : (2) Tái Phát Xuất Từ Tình Yêu

TÁI PHÁT XUẤT TỪ TÌNH YÊU

Trong mấy thập niên vừa qua, chúng ta hân hoan với những mùa bội thu về ơn gọi tu sĩ – linh mục. Nhưng đó là nói về con số, còn phẩm chất thì sao? Phải chăng bên cạnh những cuộc đời chứng tá, nhũng kinh nghiệm dấn thân và thái độ hăng say bước theo Đức Kitô, một số cuộc sống trở nên khô cằn, bi quan hay lạc hướng. Giáo dân phản ứng khá mạnh về những trường hợp biến chất này.

Chúng ta chỉ có thể vượt qua khủng hoảng này bằng hành động canh tân đời sống tâm linh, đào sâu cảm nghiệm về Thiên Chúa, triệt để phó thác và gắn bó với Ngài. Nói theo ngôn từ của Bộ Dòng tu, chúng ta phải can đảm “khởi sự lại từ Đức Kitô”. Thánh bộ quả quyết: “Đời sống tâm linh phải chiếm vị thế ưu tiên trong chương trình của tất cả các gia đình dâng hiến, ngõ hầu mỗi tu hội và cộng đoàn trở nên trường tâm linh đích thực theo Tin Mừng”.

Theo Huấn thị, “chúng ta phải để cho Thần Khí khai mở nguồn nước hằng sống tuôn trào một cách vô cùng phong phú từ Đức Kitô. Chính Thần Khí làm cho chúng ta nhìn nhận Đức Giêsu Nazareth là Đức Chúa (x. 1 Cr 12,3), Ngài cho chúng ta nghe lời mời gọi đi theo Đức Kitô và kết hiệp chúng ta trong Người. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô thì không thuộc về Đức Kitô (x. Rm 8,9). Chính Thần khí, khi biến chúng ta thành những người con trong Chúa Con, làm chứng về tình phụ tử của Thiên Chúa, giúp chúng ta ý thức tư cách làm nghĩa tử và cho phép chúng ta dám gọi Thiên Chúa là “Abba, Cha ơi” (Rm 8,15)”.

Chỉ khi nào biết khởi sự lại từ Đức Kitô đời linh mục của chng ta mới tìm thấy nghị lực và sinh khí mới để dấn thân phục vụ Giáo hội và nhân loại: “Vâng, ta phải khởi sự lại từ Đức Kitô bởi vì chính từ nơi Ngài mà các môn đệ đầu tiên đã khởi hành tại Galilea; từ nơi Ngài mà suốt dòng lịch sử, những người nam nữ thuộc mọi giai cấp và văn hóa, được Chúa Thánh Thần hiến thánh theo ơn gọi của họ, đã khởi hành; vì Ngài, họ đã từ bỏ gia đình và quê hương, theo Ngài cách vô điều kiện, chuẩn bị sẵn sàng để loan báo Nước Trời và làm điều lành cho mọi người (…). Không có Đức Ki-tô họ không thể làm được gì (x. Ga 15,5) ; nhưng, trong Ngài là Đấng ban sức mạnh, họ có thể làm mọi sự (x. Pl 4,13)”.

1- Một ơn gọi để yêu thương

Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với hai môn đệ đầu tiên theo Tin Mừng của thánh Gioan hé mở cho chúng ta một hành trình ơn gọi. “ Hôm sau, ông Gioan đang đứng với hai môn đệ trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Rapbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu? Người bảo họ: “Đến mà xem”. Họ đã đến xem chỗ người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (Ga 1,35-39).

Truyền thống vẫn cho rằng Gioan Tông đồ là tác giả Tin Mừng thứ 4 và là “người môn đệ được Chúa yêu thương”. Tin Mừng Gioan kể lại cuộc gặp gỡ với Đấng đã cuốn hút đời ông, đã để lại một dấu ấn vĩnh cửu nơi ông, Đấng đã yêu thương ông và được ông đền đáp lại. Ông được diễm phúc gặp Ngài ở thuở thiếu thời và cuộc gặp gỡ đó đã triệt để biến đổi cuộc đời ông. Gioan soạn thảo Tin Mừng vào những năm 90, nghĩa là khoảng 60 năm sau khi gặp Chúa. Nhưng buổi gặp gỡ ban đầu kỳ diệu ấy đã in hằn nơi tâm trí. Trải qua bao nhiêu thăng trầm và biến đổi của nhân tình thế thai, cụ già Gioan vẫn nhớ rõ mồn một: “Lúc ấy vào khoảng giờ thứ mười”.

Mỗi người chúng ta đều có “một giờ thứ mười” và một cách thế gặp gỡ Chúa ở thuở thiếu thời. Mỗi người chúng ta cũng có câu chuyện độc đáo về ơn gọi của riêng mình. Nhưng trọng tâm của mọi câu chuyện về ơn gọi linh mục vẫn là kinh nghiệm được Thiên Chúa yêu thương. Thánh sử Gioan diễn tả một cách ngắn gọn: “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước.” (1 Ga 4:19). Thật sự, Thiên Chúa đã yêu thương và kêu gọi chúng ta ngay từ trong lòng mẹ. Ngài yêu thương chúng ta không phải vì chúng ta xứng đáng với tình yêu của Ngài, mà vì tình yêu nhưng không. Ngài yêu thương chúng ta trước khi chúng ta có thể yêu lại Ngài và ngay cả những lúc chúng ta u mê lầm lạc. Nói cách khác, chính Thiên Chúa là Đấng yêu chúng ta trước và làm cho chúng ta có thể yêu Ngài và yêu tha nhân bằng sức mạnh của Thánh Thần. Tất cả những gì chúng ta có thể làm không gì khác hơn là đáp lại tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta và ngay cả điều này chúng ta cũng chẳng có thể thực hiện một mình, dựa trên khả năng và nỗ lực của con người mà thôi.

Chính tình yêu hải hà của Thiên Chúa định hình cuộc đời tu trì của chúng ta. Có thể nói đời tu hành là một cách thế sống và đường hướng dấn thân được Thánh Thần thúc đẩy để bước theo Đức Kitô. Đời sống này được tổ chức quanh giá trị của chính tình yêu và luôn đặt mối tương quan tình yêu với Đức Giêsu lên hàng đầu. Chính tình yêu dành cho Đức Giêsu, được thể hiện qua cuộc đời mục tử, phải chiếm vị trí ưu tiên. Và chính tình yêu của Đức Kitô thúc đấy ta loan báo Tin Mừng và hiến thân phục vụ anh em đồng loại.

2- Một chứng nhân cho tình yêu

Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, một vị thánh của thời đương đại, xác quyết một cách mạnh mẽ: “Ơn gọi của tôi chính là tình yêu!” hay “giữa lòng Giáo Hội, tôi sẽ là tình yêu”. Trong cuốn “Tự thuật” thánh nhân kể lại những thao thức dằn vặt của ngài vì khát vọng trở nên vị đại thánh trong Giáo Hội: “Khi nguyện ngắm, những khát vọng của em làm cho em bị đau khổ giày vò (…). Tình cờ mắt em bắt gặp chương 12 và 13 thư I gửi tín hữu Corinto (…). Khi đọc chương trước, em thấy rằng không phải ai cũng có thể làm tông đồ, ngôn sứ hay thầy dạy. Em cũng thấy rằng Hội Thánh gồm nhiều phần tử khác nhau, và mắt không thể vừa là mắt vừa là tay được (…). Câu trả lời trên thật rõ rang nhưng không làm em thỏa mãn và đem lại cho em sự bình an.

“Không sờn lòng, em tiếp tục đọc và câu sau làm em nhẹ nhõm: Anh em hãy tha thiết kiếm tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả. Và thánh Phaolô tông đồ giải thích rằng mọi ơn hoàn hảo nhất chẳng là gì cả, nếu không có tình (…), và đúc ái là con đường tuyệt hảo chắc chắn dẫn tới Thiên Chúa. Và cuối cùng em đã được bình an thư thái.

“…Bấy giờ, vào lúc tình yêu dạt dào ngây ngất, em đã reo lên: Ôi Giêsu, tình yêu của con (…), ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm thấy, ơn gọi của con chính là tình yêu (…). Trong lòng Hội Thánh, Hiền Mẫu của con, con sẽ là tình yêu. Như thế, con sẽ là tất cả (…) và như thế ước mơ của con sẽ được thực hiện”.

Lời xác quyết đó trở thành một định hướng và nét tiêu biểu của đời tu hôm nay. Hơn bao giờ hết, hôm nay Giáo hội cũng như xã hội cần những chứng nhân của tình yêu và lòng quảng đại vô bờ. Hơn là một lối sống để bước theo Đức Kitô hay một sứ vụ để hoàn thành, cuộc đời của chúng ta phải là một đời sống mà tình yêu Đức Kitô được sống cho tới mức vẹn toàn.

Chính vì vậy chúng ta không lấy làm lạ khi giáo dân cũng như các thành phần khác trong Giáo hội luôn quan tâm đến phẩm chất đời sống yêu thương của chúng ta. Bên cạnh những tài năng và các công trình xây dựng, họ muốn nhìn thấy nơi chúng ta những mẫu mực của tình yêu và bác ái. Trên hết và trước hết, họ mong chờ chúng ta trở thành những con người yêu thương.

Tại nhiều Đại Hội Giới trẻ, câu hỏi mà giới trẻ thường đặt ra cho các giám mục và linh mục cũng xoay quanh câu chuyện yêu thương đó. Họ không hỏi chúng ta đã xây được bao nhiêu nhà thờ và cơ sở, mà mối tương quan của chúng ta đối với Chúa và anh chi em nhân loại như thế nào? Một số người thậm chí còn dám hỏi thẳng: “Đời sống yêu thương của quý ngài như thế nào rồi?” Thiết nghĩ câu hỏi ấy không chỉ là câu hỏi đúng đắn mà còn là một câu hỏi nền tảng nữa.

Vào tuần tĩnh tâm này thật là quan trọng đối với mỗi linh mục chúng ta tự vấn với câu hỏi nền tảng đó : “Đời sống yêu thương của tôi như thế nào rồi?” Đoạn văn sau đây của sách Khải huyền (Kh 2,1-7) mời gọi những người theo Chúa Kitô tự kiểm với cùng một câu hỏi như thế. Trong đoạn này, các Kitô hữu ở Ephêsô được ca ngợi về sự công chính, sự vất vả và các nhân đức của họ: “Ta biết các việc ngươi làm, nỗi vất vả và lòng kiên nhẫn của ngươi; Ta biết ngươi không thể chịu đựng kẻ ác(...). Ngươi có lòng kiên nhẫn và chịu khổ vì daanh Ta mà không mệt mỏi” (Kh 2,2-3). Nhưng bất chấp những điều đó, Thánh Thần đã phải phiền trách họ: “Ta trách ngươi điều này: ngươi đã đánh mất tình yêu thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu. Nếu không, Ta dến với ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó, nếu ngươi không hối cải “(Kh 2,4-5). Phải chăng đó cũng là một lời khiển trách nhắm vào các Kitô hữu cũng các linh mục và tu sĩ ngày nay? “Ngươi đã đánh mất tình yêu thuở ban đầu.” Lời khiển trách này nêu rõ hai trọng điểm mà chúng ta cần quan tâm.

3- Xa rời trọng điểm

Ngày nay, chúng ta có thể đánh mất trọng điểm tình yêu bằng nhiều cách. Trước tiên, thế giới của chúng ta luôn vội vã. Tốc độ trở thành luật của cuộc sống. Đây là thời điểm của những thứ “nhanh”: thư phát nhanh, làn đường dành cho tốc độ nhanh, sửa chữa nhanh, thức ăn nhanh v..v… Như người ta thường nói: Thời giờ là tiền bạc. Phải sử dụng thời giờ sao có lợi. Chúng ta luôn có những việc hữu dụng hơn để làm. Những chuyện cá nhân hoặc giữa các cá nhân xem ra không quan trọng đối với chúng ta.

Một xu hướng mới của con người hôm nay là làm nhiều việc cùng một lúc, như vừa dùng bữa vừa xem tivi, vừa xem phim vừa lướt mạng, vừa nghe nhạc vừa gửi tin nhắn, vừa lái xe vừa lấy hẹn bằng điện thoại di động… Nhiều người, cả trẻ lẫn già, đều làm cái gọi là “tranh thủ” như vậy. Điều này cũng xảy ra đối với các linh mục. Hiện tượng mới cho thấy rằng cuộc sống ngày càng trở nên bận rộn, vội vã và phiến diện hơn. Mọi người, kể cả các linh mục tu sĩ, ngày càng trở thành những con người bận rộn, có ít thời gian dành cho những nhu cầu tâm linh và cá nhân hơn, ví dụ như ngừng làm việc để nghỉ ngơi, gặp gỡ những người mình yêu thương, để lắng nghe, để hồi tâm hoặc để cầu nguyện.

Đối với các linh mục, những mối bận tâm đa chiều của đời sống hiện đại và công tác mục vụ đẩy chúng ta vào trong đại dương của những hoạt động không cùng. Bản danh sách “những việc phải làm” không bao giờ chấm dứt. Rất dễ để mình bị rơi vào cái bẫy của vòng xoáy làm việc theo chức năng, chẳng hạn như một người phải : cầu nguyện, đọc kinh phụng vụ, làm lễ, đi chầu lượt, hội họp, tham gia sinh hoạt cộng đồng, thăm viếng các gia đình, tổ chức các buổi lễ hoặc chương trình diễn nguyện, lên kế hoạch các dự án… đơn giản chỉ vì đó là những việc mà chúng ta phải làm. Việc lặp đi lặp lại cùng một công việc phải làm có thể dẫn chúng ta vào con đường mòn của lối sống công chức. Chúng ta có thể hành xử như một “công chức” hay “công nhân chuyên nghiệp”, là những người luôn luôn sẵn sàng để làm một cái gì đó, như một robot. Tình hình có thể tồi tệ hơn ở những nơi công tác nhiều, mà nhân lực lại quá mỏng và quá hẻo. Chúng ta phải thực hiện rất nhiều công việc trong cùng một lúc và dẫn tới chỗ thường bị căng thẳng.

Nền văn hoá của chúng ta cũng đang trở thành thực dụng, vụ lợi và kỹ thuật trị. Nó đề cao lợi nhuận và sự hữu dụng của sự vật. Con người được đánh giá dựa trên công việc họ làm cũng như sự hữu dụng của họ. Thậm chí người linh mục và tu sĩ được đánh giá cao hoặc được nhiều người biết tới hơn là do những việc họ làm. Việc quá nhấn mạnh đến tính hiệu quả và năng suất đã làm lu mờ đi tính ưu việt của nhân vị cũng như của những mối tương quan trong đời sống con người. Con người trở thành người quá hiếu động hay tệ hơn nữa, “nghiện làm việc”. Nền văn hoá “bị công việc lèo lái” sắp đặt hoặc văn hoá của “chức năng” tác động một cách bất lợi tới đời sống tâm linh của ngươi linh mục. Một số người có thể đặt giá trị con người của mình nơi các tác vụ, nơi những dự án, nơi các công trình xây dựng, nơi các ngôi nhà thờ hay nhà giáo lý. Cũng có thể xảy ra là người ta có thể bị nhiễm độc bởi sự thành công trong công việc hoặc bởi sự tự thoả mãn với những gì mình làm cho người khác, đến nỗi không còn tiếp xúc với chiều sâu tâm hồn, chỉ còn lại một người rất năng động và hiệu quả nhưng lại thiếu đi sức sống và tình yêu bên trong.

4- Tái tập trung vào Tình yêu

Thực trạng đáng buồn yêu cầu chúng ta phải chỗi dậy ngay tại điểm mà chúng ta bị té ngã. Chúng ta được mời gọi để tái xác định vai trò trọng điểm của tình yêu. Không gì có thể thay thế cho một tình yêu sống động trong đời sống của một Kitô hữu cũng như trong đời sống linh mục. Tất cả những cố gắng, khó nhọc, và ngay cả nhân đức sẽ chẳng bao giờ là đủ đối với đời sống Kitô hữu hay đời sống linh mục của chúng ta, nếu vắng bóng hoặc đánh mất tình yêu.

Thánh Phaolô cảm nghiệm một cách sâu xa sự cần thiết và tính ưu việt của tình yêu. Trong Bài ca Đức mến, ngài diễn tả một cách thật sâu sắc vai trò của đức ái trong Kitô giáo: Ơn nói được các ngôn ngữ, ơn nói tiên tri, ơn trí tri và đức tin, ngay cả hành động bố thí cho người nghèo, hoặc trao nộp nộp thân xác để chịu thiêu đốt như của lễ toàn thiêu mà nếu thiếu vắng đức mến, thì cũng chẳng ích gì (1Cor 13,1-3). Dĩ nhiên, nhiều lần thánh nhân nhấn mạnh đến sự cần thiết của đức trong nhiệm cục cứu độ, nhưng thực ra, đối với Phaolô, đức tin chỉ có ý nghĩa khi “hành động nhờ đức ái” (Gl 5:6). Do đó, ngài có lý để quả quyết: “Đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13:13).

Với tư cách là linh mục, chúng ta không thể không dấn thân tìm kiếm điều mà thánh Phaolô gọi là ân huệ “cao trọng nhất” đó là tình yêu, agape. Giả sử ta được tất cả những cái khác mà nếu thiếu điều này, thì rút cuộc “chỉ là hư không” (x. 1Cr 12:31-13:13). Một đời sống yêu thương được chìm ngập trong mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa đã và sẽ luôn luôn là nền tảng của đời sống linh mục. Thực vậy, lời mời gọi khẩn thiết đối với các linh mục ngày nay là đặt tình yêu vào vào trung tâm điểm của cuộc đời chúng ta. Trên tất cả, tình yêu phải là động lực và nhựa sống của mọi hành động cũng như nguyện ước của đời ta. Nếu chúng ta làm được điều đó, chúng ta sẽ lớn mạnh và kiên định trong ơn gọi của mình. Và rồi, chúng ta sẽ thực sự hạnh phúc.

5- Nhịp cầu liên kết Sống động của Tình yêu Thiên Chúa

Thực khó thực hiện trọn vẹn lời mời gọi làm chứng cho tình yêu trong thời đại chúng ta. Làm sao chúng ta có thể thực hiện được điều này? Chúng ta là ai để có thể là chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa? Nhưng nhiệm vụ yêu thương không phải là bất khả thi. Xét như con người, tình yêu của chúng ta thực ra chỉ là sự đáp trả tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thêm vào đó, ngay cả trong hành động đáp trả của chúng ta, thì đó không phải là vấn đề của việc yêu Chúa và tha nhân thuần túy dựa trên khả năng và nỗ lực con người của chúng ta. Đúng hơn, đó là yêu thương với tình yêu của Chúa. Thánh Phaolo viết : “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5:5). Do đó, chính Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta trước và làm cho chúng ta yêu Ngài và tha nhân bằng sức mạnh của Thánh Thần. Bất cứ ai có Thánh Thần ở với đều có một khả năng kỳ lạ để yêu thương. Nói cho cùng, chính tình yêu của Thiên Chúa hoạt động trong chúng ta.

Chính tình yêu của Thiên Chúa hoạt động vượt trên chúng ta. Khi đặt trọng tâm đời mình vào tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta không hề trở nên qui ngã, giảm thiểu sự tận tâm và tận tụy đối với nhu cầu của tha nhân. Đúng hơn, tình yêu dẫn chúng ta ra khỏi chính mình. Mặc dù tình yêu cư ngụ và khởi đi từ trái tim, cũng như bên trong con người của ta, nhưng tình yêu vươn mình đến những tương quan liên vị. Đúng thế, khi chúng ta tuyên xưng yêu mến Thiên Chúa, thì lập tức chúng ta được mời gọi yêu thương anh chị em của mình. “Nếu ai nói : ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người : ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình.” (1 Ga 4:20-21). Không có chọn lựa nào khác ngoài chọn lựa để cho tình yêu thấm nhập vào mọi mối tương quan của chúng ta với tha nhân, gia đình và cộng đoàn của chúng ta.

Hơn thế nữa, vượt trên phạm vi giữa những cá nhân với nhau, tình yêu của Thiên Chúa còn hoạt động trong các lĩnh vực xã hội và sinh thái. Đây là nơi xuất hiện những thách đố lớn hơn cho việc chúng ta làm chứng cho tình yêu ngày nay. Là Kitô hữu và linh mục, vai trò của chúng ta là đặt mình trong tay Thiên Chúa để Ngài có thể dùng chúng ta mà yêu thương thế giới và toàn thể tạo thành, biến đổi và sắp xếp chúng theo kế hoạch của Ngài. Hồng y Yves Congar đã diễn tả một cách rất hay về chân lý này :

“Nếu Thiên Chúa của tôi là Thiên Chúa của Sách Thánh, vị Thiên Chúa hằng sống, Đấng ‘Ta là, Ta đã là, Ta đang đến’, vậy thì, Ngài không thể tách rời khỏi thế giới và con người… Hoạt động của tôi hệ tại ở chỗ trao hiến chính mình cho Thiên Chúa, Đấng cho tôi trở thành cầu nối cho những hoạt động thần linh của Ngài đối với thế giới và tha nhân. Tương quan của tôi với Thiên Chúa không phải là tương quan của một hành vi thờ phượng phát xuất từ việc tôi dâng lên cho Ngài, nhưng đúng hơn, đó là tương quan đức tin, qua đó tôi trao hiến bản thân cho hoạt động của Thiên Chúa hằng sống, Đấng thông ban chính mình cho thế giới và nhân loại theo như kế hoạch của Ngài. Tôi chỉ có thể đặt mình trước mặt Thiên Chúa một cách thành tín và hiến dâng trọn vẹn con người tôi với cả tài năng để tôi có thể ở nơi mà Thiên Chúa đợi chờ tôi, là cầu nối giữa hoạt động của Thiên Chúa với thế giới.”

Dưới ánh sáng này, ơn gọi linh mục để yêu thương không gì khác hơn là trao nộp chính mình cho tình yêu của Thiên Chúa, cho nhân loại, cho thế giới và cho chúng ta. Cha Congar nói thêm: “Chỉ có một điều là thực và xác thực đó là trao dâng chính mình cho Thiên Chúa”. Bằng những lời tương tự, chúng ta có thể nói, chỉ có một điều thực và xác thực trong cuộc đời của người linh mục đó là hiến dâng chính mình cho tình yêu của Thiên Chúa để mình có thể trở thành cầu nối sống động của tình yêu Thiên Chúa cho thế giới. Trách nhiệm của một linh mục là phải ở chính nơi Thiên Chúa muốn chúng ta hiện diện, nơi mà Thiên Chúa đang chờ đợi.

6- Yêu thương tha nhân trong sự khác biệt của họ

Thế giới đương đại đang đặt ra cho sứ vụ yêu thương của chúng ta rất nhiều thách đố. Trong thời đại toàn cầu hóa, đa văn hóa, đa tôn giáo, đa ý thức hệ, thực dụng, ích kỷ, đầy phân cách và bạo động mà chúng ta đang sống, thách đố lớn lao nhất của sứ vụ yêu thương là làm sao để chúng ta yêu thương người khác. “Khi chúng ta nói ‘người khác’ chúng ta có ý nói đến những con người bị coi là khác với bản thân chúng ta không? Thật vậy, người khác tự bản chất không những không thể hoàn toàn đồng hóa với ta, mà còn thực sự rõ rệt khác ta. Sư khác biệt này nhiều lần gây khó khăn, bất an, lo sợ, phiền muộn và khổ đau cho bản thân ta. Tuy nhiên, chính sự khác biệt đó làm cho “người khác” là “người khác”. Ta đừng quên rằng xét theo bản thể đồng thời là người như ta, nhưng đồng thời lại là người khác ta. Chính nơi sự khác biệt này tạo nên bản sắc của họ, làm cho họ là họ, chứ không phải là ta hay một ai khác. Khai trừ sự khác biệt này một cách khiên cưỡng không những đi ngược với trào lưu của thời đại, mà còn nghèo nàn hóa xã hội và nhất là khai trừ chính tha nhân. Trong đối thoại mỗi cá nhân được nhìn nhận như những nhân vị có phẩm giá, quyền lợi, tự do, cá tính và sắc thái riêng.

Hơn bao giờ hết, ngày nay chúng ta phải đối mặt với sự khác biệt rõ nét, “tính khác biệt” sâu thẳm và tận cùng của tha nhân. Điều này không chỉ đúng về số lượng , mà cả về phẩm chất. “Đã có bao giờ chúng ta ý thức rõ ràng về những thực tại của sự khác biệt chưa? Chúng ta có ý thức rằng sức kháng cự sự khác biệt mạnh mẽ như thế nào, và chúng ta không có khả năng sống chung với những khác biệt không? Thế giới của chúng ta là một thế giới đang rơi vào lối sống thời nguyên thủy, lối sống căm ghét cái khác mình và tôn thờ cái giống mình.” Xem ra ngày nay sự chống cự những hình thái khác biệt càng lúc càng gia tăng, một bên là sự áp đặt không thương xót những suy nghĩ tăm tối của nó, một bên là chủ nghĩa khủng bố bạo lực, một dấu chỉ cho thấy sự bất lực của thế giới đương đại trong việc giải quyết những khác biệt cách lành mạnh.

Thế giới của chúng ta phần lớn được đánh dấu bởi những sự khác biệt lớn lao. Những tôn giáo lớn của thế giới tồn tại bên cạnh những tôn giáo nhỏ hơn, cũng như thế những truyền thống tôn giáo cổ hiện diện bên cạnh những thực hành tôn giáo mới. Thế giới lưu trữ một loạt các nền văn hóa độc đáo và phong phú, lớn và nhỏ, cổ kính và hiện đại. Những phân chia về mặt xã hội, kinh tế và chính trị đã tách biệt các quốc gia với nhau và tách biệt những con người trong cùng một quốc gia. Người giàu và người nghèo, kẻ yếu thế và kẻ quyền lực, tín đồ của các tôn giáo cũng ý thức hệ khác nhau và quan điểm chính trị hiện hữu trong thế giới.

Giữa một thời đại và xã hội như vậy, thì câu hỏi sâu thẳm nhất đối với chúng ta là làm sao thực hiện sứ vụ yêu thương, khước từ hận thù và bạo lực khi đối diện với sự khác biệt hay hơn nữa đối nghịch với ta. Thật vậy, nếu sứ vụ có nghĩa là yêu thương, thì vấn nạn hàng đầu của sứ vụ đó trong thời đại của chúng ta là làm thế nào để đối thoại, liên kết và gặp gỡ người khác. Tình yêu Kitô giáo đòi hỏi chúng ta yêu thương người khác vì những gì người khác là, vừa khác biệt với chúng ta vừa là độc đáo đối với ta. Vì thế, thách đố căn bản của sứ vụ ngày nay là làm sao để yêu thương người khác trong chính sự khác biệt của họ.

7- Tôn giáo nào tốt nhất?

Tại một cuộc Hội thảo bàn tròn về tôn giáo và tự do có Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi cùng tham dự. Lúc tạm nghỉ, tôi hỏi ngài, vừa tinh nghịch vừa tò mò: “Thưa ngài, tôn giáo nào tốt nhất?”.

Tôi nghĩ ngài sẽ nói: “Phật giáo Tây Tạng” hoặc “Các tôn giáo phương đông lâu đời hơn Kitô giáo nhiều”.

Đức Đạt Lai Lạt Ma trầm ngâm giây lát, mỉm cười và nhìn vào mắt tôi… Điều này làm tôi ngạc nhiên vì tôi biết đây là một câu hỏi ranh mãnh. Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời: “Tôn giáo tốt nhất là tôn giáo đưa anh đến gần Đấng Tối Cao nhất. Là tôn giáo biến anh thành con người tốt hơn”. Để dấu sự bối rối của tôi trước một câu trả lời đầy khôn ngoan như thế, tôi hỏi: “Cái gì làm tôi tốt hơn?”. Ngài trả lời: “Tất cả cái gì làm anh biết thương cảm hơn, biết theo lẽ phải hơn, biết từ bỏ hơn, dịu dàng hơn, nhân hậu hơn, có trách nhiệm hơn, có đạo đức hơn”. “Tôn giáo nào biến anh thành như vậy là tôn giáo tốt nhất”.

Tôi thinh lặng giây lát, lòng đầy thán phục, ngay cả bây giờ, khi nghĩ đến câu trả lời đầy khôn ngoan và khó phản bác của ngài. Ngài nói tiếp: “Anh bạn ơi, tôi không quan tâm đến tôn giáo của anh hoặc anh có ngoan đạo hay không”. “Điều thật sự quan trọng đối với tôi là cách cư xử của anh đối với người đồng đẳng, gia đình, công việc, cộng đồng, và đối với thế giới”. “Hãy nhớ rằng vũ trụ dội lại hành động và tư tưởng của chúng ta”. “Quy luật của hành động và phản ứng không chỉ dành riêng cho vật lý. Nó cũng được áp dụng cho tương quan con người. Nếu tôi ở hiền, thì tôi gặp lành. Nếu tôi gieo gió, thì tôi gặt bão”. “Những gì ông bà nói với chúng ta là sự thật thuần túy. Chúng ta luôn nhận được những gì chúng ta mong ước cho người khác. Hạnh phúc không phải là vấn đề số mệnh. Đó là vấn đề lựa chọn”.

Cuối cùng ngài nói: “Hãy suy tư cẩn thận vì Tư Tưởng sẽ biến thành Lời Nói. Hãy ăn nói cẩn thận vì Lời Nói sẽ biến thành Hành Động. Hãy hành xử cẩn thận vì Hành Động sẽ biến thành Thói Quen. Hãy chú trọng Thói Quen vì chúng hình thành Nhân Cách. Hãy chú trọng Nhân Cách vì nó hình thành Số Mệnh, và Số Mệnh của anh sẽ là Cuộc Đời của anh… và… Không có tôn giáo nào cao trọng hơn Sự Thật”.

Chính Đức Giêsu là mẫu mực tuyệt vời về tình yêu. Tin Mừng cho chúng ta thấy khi Con Thiên Chúa được sai đến với chúng ta vì tình yêu dành cho thế gian (ở trong sứ vụ) (Ga 3:16) Ngài đã biểu lộ sự tôn trọng lớn lao đối với sự khác biệt của chúng ta. Ngài “trở thành xác phàm” và “cắm lều giữa chúng ta” (Ga 1:14). Ngài “đã vét rỗng chính mình” và “trở nên giống phàm nhân” (Pl 2:6-7); Ngài đến “không phải để được người ta phục vụ , mà để phục vụ” chứ (Mc 10:45) và Ngài đã “hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Thực sự, Ngài đã đi một chặng đường dài để đón nhận sự khác biệt của chúng ta. Trong cuộc sống và cả cái chết, Ngài hoàn toàn “trút bỏ” địa vị ngang hàng Thiên Chúa để hiến dâng trọn vẹn chính mình cho loài người chúng ta. Bằng hành động đón nhận một cách yêu thương sự khác biệt của chúng ta, Ngài đã cứu chuộc chúng ta và trao tặng sự sống cho thế giới.

* Hãy trân trọng BÀI VIẾT và khích lệ NHẤN NÚT thay lời CẢM ƠN!

Nhấn In

TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:  Icon_minitimeSun Nov 24, 2013 6:08 am
huongmuadong
DIỄN ĐÀN
TU ĐẠO VIỆT NAM
huongmuadong
Tước hiệu
Điều Hợp Viên
Điều Hợp Viên
online
online

Bài gửiTiêu đề: Re: TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:

TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:
TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ : (3) Chứng Nhân Cho Tình Yêu Vô Biên

CHỨNG NHÂN CHO TÌNH YÊU VÔ BIÊN

Ở thời đại hôm nay, người ta đề cao hôn nhân như là một cách thế bước theo Đức Kitô trong niềm hoan vui và vẻ đẹp của nó. Công Đồng Vatican II cũng nói đến sự thánh thiêng của hôn nhân và gia đình. Trên thực tế, hôn nhân là một nếp sống được hầu hết các môn đệ Đức Kitô đón nhận. Trong chiều hướng đó, đời sống độc thân xem ra đi ngược với thời đại và cần được đặt lại. Nhưng, xưa cũng như nay, khiết tịnh độc thân vẫn là chứng nhân cho tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Tuy nhiên, có nhiều lý do để sống khiết tịnh độc thân chứ không phải chỉ thuần túy là một đời sống “không hôn nhân”. Thách đố nằm ở chỗ chúng ta sống khiết tịnh độc thân vì mục đích nào và đâu là ý nghĩa tích cực của nó? Đối với các linh mục, đời sống khiết tịnh độc thân mang ý nghĩa gì?

1- Một Cam kết Tình yêu căn bản

Truyền thống Kitô giáo xác nhận rằng tình yêu đối với Đức Kitô là lý do đầu tiên, nền tảng và thích hợp nhất để giải thích việc chọn lựa sống khiết tịnh độc thân. Điều này thể hiện rõ ràng trong trường hợp của các nam nữ tu sĩ đầu tiên, cụ thể là những trinh nữ và những bà goá trong thời Giáo hội sơ khai. Trinh nữ là những người phụ nữ từ chối kết hôn vì tình yêu chung thủy họ dành cho Đức Kitô. Những bà goá đã từ bỏ khả năng tái hôn để toàn tâm toàn ý hiến dâng chính mình cho tình yêu Chúa và tha nhân bằng việc chuyên cần cầu nguyện và phục vụ người nghèo túng. Chính động lực của tình yêu hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa và tha nhân đó đã truyền lại cho thời đại của chúng ta, như lý do tích cực của chọn lựa sống khiết tịnh độc thân. Điều đó muốn nói lên rằng vì quá yêu mến Đức Kitô, họ không thể làm gì khác hơn là quyết định hiến dâng trọn vẹn con người của họ như hiến vật dâng lên Thiên Chúa trong tình yêu. Khiết tịnh độc thân được coi là sự khẳng định cao độ, một cam kết tình yêu chính yếu của cá nhân tuyên khấn với Đức Kitô.

Do đó, khiết tịnh độc thân trước hết là một vấn đề của ơn gọi làm người và làm Kitô hữu để yêu thương. Sự khiết tịnh này không bao giờ dành cho những người trốn sợ hãi tình yêu, hoặc không có khả năng thực hiện cam kết - tình yêu. Nó không phải là sự trốn tránh bổn phận và trách nhiệm của đời sống hôn nhân. Người có thể đón nhận khiết tịnh độc thân là người trước hết biết khám phá giá trị tình yêu và nhìn nhận cách tự do ơn gọi làm người của mình để trao ban chính mình vì tình yêu Thiên Chúa.

Khiết tịnh độc thân của linh mục cũng được đâm rễ nơi chính tình yêu Thiên Chúa, tình yêu ấy lấp đầy và làm cho trái tim con người, trong thân phận phàm nhân của mình, có khả năng trao ban chính mình một cách trọn vẹn cho Thiên Chúa trong tình yêu. Đây là một ân huệ Chúa chỉ trao tặng cho một số người, chứ không phải cho tất cả (x. Mt. 19:12). Sáng kiến này là của Thiên Chúa. Vì được bàn tay Chúa chạm tới, con người cảm thấy phải yêu Chúa cách say mê, cho nên quyết định sống quyết định sống độc thân.

Các chuyên viên nêu lên một số dấu hiệu giúp nhận diện ứng viên có khả năng sống khiến tịnh độc thân hay không: (1) khả năng trưởng thành nhân bản để tự mình cam kết vì tình yêu (2) chiều sâu tình yêu của họ đối với Chúa nhằm đáp trả tình yêu của Ngài đối với họ. Nhiệm vụ của người đào tạo là giúp nẩy sinh nơi các ứng sinh linh mục hai điều kiện tiên quyết này để sống khiết tịnh độc thân. Ngoài ra, để duy trì đời sống khiết tịnh độc thân như là một cam kết tình yêu với Đức Kitô, các linh mục phải có một đời sống cầu nguyện sâu xa. Đức Giêsu phải là người bạn thân tín nhất của người sống đời độc thân.

2- Cách thế đích thực của Yêu thương

Trước đây, người ta thường nhấn mạnh đến việc khước từ đời sống hôn nhân và chú trọng vào việc kiểm soát các xung lực của bản năng, ước muốn, tư tưởng và cảm giác của tính dục thể lý. Sự nhấn mạnh này đã dẫn một số người tu hành đến chỗ sợ hãi cách thái quá và thiếu sự đánh giá đúng đắn tính dục con người và giá trị của hôn nhân. Tệ hơn nữa, một số người không cảm thấy thoải mái với cơ thể của mình và tránh né những giao tiếp với người khác phái.

Cách tiếp cận tiêu cực đó cũng dẫn tới việc các tu sĩ phớt lờ đời sống tâm sinh lý của họ, dẫn tới một đời sống tình cảm cằn cỗi, cứng nhắc và lạnh nhạt trong những mối tương quan cá vị với người khác. Sự nhấn mạnh một chiều dẫn đến kết quả là sự kiềm chế tình yêu xét như là những con người có khả năng tình dục. Vì vậy, một số người khấn giữ khiết tịnh đã đánh mất tính tự nhiên trong việc thể hiện tình cảm của mình. Hầu như họ trở thành những bà hay ông già độc thân khó tính.

Rất may là ngày nay đã giảm thiểu tối đa quan niệm tiêu cực và một chiều đó. Thật vậy, lời khấn khiết tịnh độc thân không phải là khước từ ơn gọi yêu thương của con người. Nó cũng không phải chối bỏ giới tính hay phủ nhận tính dục của con người. Cái mà linh mục từ bỏ là quan niệm chiếm hữu trong hình thức tình yêu phu thê và cách diễn tả truyền sinh của giới tính. Nhà tu hành cũng cần yêu và được yêu như những con người có giới tính. Tình yêu cũng bao gồm toàn bộ con người và toàn thể giới tính của họ : không chỉ trên bình diện lý trí và ý chí mà còn bao gồm thân xác, các giác quan nội tại và ngoại tại, cảm giác, cảm xúc, và đam mê của con người. Đó cũng chính là tình yêu của một con người hồn- xác và có giới tính.

Khiết tịnh độc thân theo quan điểm Kitô giáo không phải là sự dồn nén nhưng là một hình thức “sự kiện toàn” và thăng hóa của tình yêu nhân loại. Vì vậy, để khiết tịnh trở thành đáng tin cậy đối với con người hôm nay, Tông Huấn Đời sống Thánh hiến viết : “đời sống thánh hiến giới thiệu cho thế giới ngày nay những mẫu gương của đời sống khiết tịnh của những tu sĩ nam nữ, là những con người tỏ rõ sự quân bình, tự chủ, tinh thần dấn thân, tâm lý và tình cảm trưởng thành.” Sự khiết tịnh phải được sống như một cách thế yêu thương của con người vừa có hồn vừa có xác.

Hơn nữa, đối diện với nền văn hoá kỹ trị, vụ lợi và ích ký hiện nay, nhà tu hành được mời gọi để hình thành nơi bản thân một tình yêu nhân loại chân thành, nồng ấm và vui tươi. Cuộc sống độc thân, không có vợ con để phải trực tiếp săn sóc, đôi khi khiến linh mục bị cám dỗ đặt lao đầu vào công việc và đặt hiệu năng của công việc hơn là con người cụ thể và những mối tương quan nhân vị. Họ có thể trở nên hờ hững với cuộc đời, không còn nhu cầu của tha nhân, cũng nỗi đau nỗi khổ của đồng loại. Để chống lại hiện tượng tiêu cực này, Giáo hội mời gọi các linh mục làm chứng cho tính ưu việt của con người vượt lên trên sự vật, của những mối tương quan và của tình yêu vượt lên trên hoạt động và hiệu năng của công việc. Họ phải sống khiết tịnh độc thân như là một tình yêu đích thực và tràn đầy niềm vui.

3- Một Tình yêu giải thoát

Khi cam kết sống khiết tịnh độc thân, ngày xưa một số người có khuynh hướng nhấn mạnh đến tình trạng tiêu cực, cằn cỗi, vô sinh và khép kín. Nhưng trọng tâm đời sống độc thân linh mục là cam kết thực hiện một tình yêu trọn vẹn. Tình yêu thì luôn luôn phong nhiêu và sáng tạo. Do đó, một trong những dấu hiệu của sự thực hành chân chính của khiết tịnh độc thân đó là sự giải thoát phong phú và tâm hồn hân hoan, mở rộng để đón nhân mọi người.

Thật vậy, khiết tịnh độc thân giải phóng khỏi tham vọng nhục dục và cái tôi hẹp hòi để hướng về sự siêu thăng và triển nở chính mình. Nó mang đến cho chúng ta niềm an vui đích thực, cũng như động cơ cao thượng để dám sống và dám chết vì tình yêu. Thánh Phaolô nhắc đến động cơ này trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Corintô. Đối với ngài, cuộc sống độc thân giải thoát người nam cũng như nữ khỏi những mối bận tâm khác khiến họ phải phân tâm, để hoàn toàn tập trung vào công việc của Chúa và làm vui lòng Ngài (1 Cr 7:32-35). Thánh sử Mathêu cũng mô tả Nước Thiên Chúa như là lý do đời sống độc thân của Đức Giêsu (Mt 19:12). Chính sự đắm chìm với “Đức Chúa và việc của Ngài” hoặc “Nước Chúa” này giải thoát năng lực tuyệt vời của những người nam và người nữ để yêu thương. Sự trải rộng tình yêu của mình đến sự tròn đầy nhất, khiến nó trở thành phong phú, sinh hoa kết trái dồi dào trong việc phục vụ đời sống của tha nhân. Cũng tình yêu này làm cho họ có khả năng để vượt thắng những chướng ngại không thể vượt qua được, ngay cả mối đe dọa của cái chết, để Nước Chúa được loan báo khi thuận lợi cũng như khi không thuận lợi. Sự khiết tịnh độc thân làm cho chúng ta tự do và sáng tạo trong sứ vụ.

Sự tự do và giải thoát của khiết tịnh độc thân còn giúp chúng ta vượt khỏi tình yêu chiếm hữu của đời sống hôn nhân để vươn tới một tình yêu rộng mở, không chiếm hữu như lẽ đời. Cha Timothy Radcliffe nhận định sâu sắc: “Cực điểm của tình yêu nơi chúng ta sẽ là hành động tự nguyện từ khước quyền sở hữu. Những người chúng ta yêu thương, thì chúng ta phải để cho họ được tự do; chúng ta phải để cho họ là họ”.

Một nghịch lý sâu thẳm và trớ trêu thường xảy ra là khi chúng ta khước từ hôn nhân, chấp nhận không có người phối ngẫu và con cái của riêng mình, thế mà lại đi tìm kiếm những hình thức “sở hữu hay chiếm hữu trá hình”, qua những hình kết nghĩa hay nhận con thiêng liêng. Tình yêu khiết tịnh độc thân không chỉ nhằm làm triển nở sự tự chủ và độc lập của con người, nhưng còn nhắm tới việc làm cho chúng ta đạt tới sự viên mãn của hữu thể và sự tự do của Tin Mừng. Tình yêu khiết tịnh độc thân không nhằm kết hợp và gắn bó những người khác với chính mình, mà giúp họ kết hợp và gắn bó với Thiên Chúa, cũng như với cộng đoàn. Linh mục trung thành với lời khấn khiết tịnh khi tình yêu đối với người khác không mang tính chất chiếm hữu, mà là giải thoát, không rang buộc trong tình cảm cha con đầy tính cách nhân loại, mà giúp họ được lớn lên, được phát triển và thăng tiến trong phẩm giá của họ như những con cái hào hùng của Thiên Chúa.

Linh mục chúng ta cần chiêm ngắm tình yêu của Đức Giêsu như mẫu mực của tình yêu giải thoát và đơm bông kết trái. Tình yêu của Ngài là tình yêu không chiếm hữu, nhưng trao ban vì lợi ích của người khác. “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:10-11). Tình yêu của Ngài chính là tình yêu trao ban sự sống: sự sáng tạo của sự sống và phục vụ sự sống của người khác. Về vấn đề này, John Macquarrie diễn tả thật sắc nét:“Yêu thương là để họ-là họ (letting-be), dĩ nhiên không có ý nói đó là sự xa lánh người khác, nhưng với ý nghĩa tích cực và rõ ràng, đó là để cho người khác được là chính họ. Khi chúng ta nói về ‘letting-be’, chúng ta phải hiểu cả hai phần của sự diễn tả có dấu nối ở giữa trong ý nghĩa mạnh - ‘letting’ có nghĩa là làm cho mạnh mẽ và ‘be’ có nghĩa là đạt tới hiện hữu phong phú tối đa. Đó là mở hiện hữu mở ra tới sự được quan tâm đặc biệt. Cụ thể nhất, ‘letting-be’ có nghĩa là giúp một người phát triển tiềm năng hiện hữu tròn đầy của mình; và tình yêu cao cả nhất cũng sẽ đắt giá nhất, bởi vì nó chỉ hoàn thành qua hành động hy sinh chính mạng sống của mình”.

4- Những lấn cấn trong Tình yêu

Cuối cùng, sự khiết tịnh độc thân có một đặc tính cụ thể như là một cách thế yêu thương đích thực, đó là đặc tính bao hàm của nó. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy tình yêu của Đức Giêsu tự căn là tình yêu không loại trừ. Ngài tiếp đón người nghèo, người ốm đau, những tội nhân, rồi cả trẻ em và phụ nữ. Ngài lôi kéo vào tình thân hữu, lòng thương cảm và tình bằng hữu của Ngài mọi thứ hạng người kể cả những người bị loại trừ, bị gạt ra bên lề, bị quên lãng, và bị bỏ rơi bởi xã hội. Chúng ta thấy Ngài luôn đến với người khác bằng tình yêu thương, vượt lên trên những ranh giới được thừa nhận về mặt xã hội, tôn giáo và sắc tộc. Ngài đích thân đến nhà của viên trưởng thu thuế Giakêu (Lc 19:1-10), ăn tiệc tại nhà ông Simon biệt phái (Lc 7:35-40), cứu chữa người đầy tớ của viên bách quản (Mt 8:5-13), và trò chuyện với người phụ nữ xứ Samaria (Ga 4:1-26). Ngài đã bị chế giễu và bị kết án là “tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Lc 7:34-35). Tuy nhiên, chính bằng cách thế yêu thương không loại trừ và cũng không chiếm hữu này mà Đức Giêsu đã qui tụ các phần tử của cộng đoàn mới thành gia đình của Thiên Chúa. Cộng đoàn mới của Ngài là giáo hội của những kẻ bị loại trừ.

Cùng thứ tình yêu không loại trừ của Đức Giêsu được hiểu như là tình yêu hiếu khách. Sự hiếu khách của Ngài vượt lên trên ranh giới tính hiếu khách của văn hóa và xã hội thời Ngài. “Đức Giêsu thách thức những định nghĩa và phạm vi nhỏ hẹp của lòng hiếu khách và thúc đẩy chúng đi xa hơn để bao gồm cả những người mà người ta ít muốn kết giao nhất”. Trong bữa tiệc của Nước Thiên Chúa mà Ngài loan báo thì mọi người đều được mời tham dự, đặc biệt là những người bị qui định và không được coi là xứng đáng như những người nghèo, tàn tật, què quặt, đui mù (Lc 14:12-14, 15-24). Sự khiết tịnh độc thân hiểu như tình yêu hiếu khách giáo dục trái tim con người để đón nhận mọi hạng người, chứ không phải chỉ dành cho những người hợp nhãn, hợp gu hay giàu có.

Sự khiết tịnh độc thân là một dấu chỉ sống động trong Giáo hội và trong thế giới cho tình yêu không loại trừ của Đức Giêsu. Đó là tình yêu mở rộng ra tới từng người và toàn thể nhân loại, không dựa trên bất cứ liên hệ vợ chồng, coi cái, huyết thống, kết nghĩa, linh tông…; nhưng chỉ dựa trên nền tảng của agape, một tình yêu trao ban trưởng thành vì tha nhân. Đó là một tình yêu rộng mở dành chỗ cho bất kỳ ai. Tình yêu này không loại trừ một ai, bất chấp chủng tộc, giới tính, văn hóa, tôn giáo, đảng phái chính trị và tình trạng kinh tế xã hội. Nó giúp nhà tu hành thi hành sứ vụ một cách hiệu quả, kính trọng tha nhân và yêu thương họ ngay trong sự khác biệt của họ. Qua việc thực hành sống khiết tịnh độc thân, linh mục muốn làm chứng cho một tình yêu vô hạn của Thiên Chúa.

Qua những trình bày sơ lươc ở trên chúng ta dễ dàng nhận ra một số lấn cấn trong cuộc sống và mối tương quan tình yêu của chúng ta.

1)- Trước hết là vấn đề đời sống độc thân linh mục. Không nói mọi người đều biết rõ trong mấy năm vừa qua Giáo hội Công giáo đã gánh chịu rất nhiều thiệt hại cả về tinh thần lẫn vật chất do lỗi lầm của các linh mục trong lãnh vực tính dục. Có lẽ trong thời hiện đại chưa bao giờ uy tín, danh dự, thế giá của Giáo hội bị xúc phạm một cách nặng nền như mấy năm gần đây. Đau xót nhất, Giáo hội bị xúc phạm do chính lỗi lầm của các mục tử. Những tổn thất về kinh tế cũng rất lớn lao. Tại Hoa Kỳ chẳng hạn, một số giáo phận và dòng tu phải tuyên bố phá sản sau những vụ kiện.

Hiện nay, Bộ Giáo lý Đức tin yêu cầu các Giám mục phải xử lý kịp thời, nghiêm chỉnh và mạnh tay đối với các giáo sỹ vi phạm. Đặc biệt, đối với trường hợp lạm dụng tình dục trẻ em, phải cấp tốc báo cáo lên Bộ. Chiều hướng của Bộ là khi nhận được đơn tố cáo phải ngưng ngay công tác mục vụ. Sau khi điều tra, nếu đương sự nhận tội, một số nơi tước mọi chức vụ hay bắt hồi tục. Đối với một số giám mục, đây là biện pháp cực chẳng đã, nhưng cần thiết để bảo vệ Giáo hội. Tuy nhiên, nhiều hội đồng linh mục coi là biện pháp quá tay và có vẻ vắt chanh bỏ vỏ.

Tại giáo phận chúng ta, cho đến nay chưa phát hiện các vụ lạm dụng tình dục đối với trẻ em như đã xảy ra tại Mỹ hay Ái Nhĩ Lan. Tuy nhiên, một số có tương quan tình dục đối với nữ giới. Đây cũng là những trường hợp gây gương mù và bức xúc trong cộng đoàn dân Chúa. Tòa Thánh cũng yêu cầu xử lý nghiêm minh về điểm này. Tôi đã làm việc với một số anh em về vấn đề này. Cho đến nay chúng ta trao đổi với nhau, gửi đi tĩnh tâm xa tại các Dòng chiêm niệm trong thời gian một hai tháng, rồi đổi xứ… Nếu những biện pháp đó vẫn không đem lại hiệu quả thì gọi về TGM hay ngưng thi hành mục vụ. Những biện pháp đó chỉ nhằm tránh gương mù và bảo vệ thanh danh của Giáo hội, cũng như của hàng linh mục và giáo dân. Xin quý cha cầu nguyện và liên đới với giáo phận hơn để có thể tìm được biện pháp thích hợp.

2)- Điểm thứ hai là làm sao thực hiện đặc tính bao hàm và không loại trừ theo gương mẫu của Đức Kitô? Ngài lôi kéo vào tình thân hữu, lòng thương cảm và tình bằng hữu của Ngài mọi thứ hạng người kể cả những người bị loại trừ, bị gạt ra bên lề, bị quên lãng, và bị bỏ rơi bởi xã hội thời của Ngài. Ở thời bao cấp, do điều kiện chính trị - xã hội, chúng ta phải sống phòng thủ, khép kín, phòng thủ và đối đầu. Mọi cố gắng là làm sao “giữ đạo” hơn là sống đạo và rao truyền đạo. Ít đề cập đến cái hay và cái đẹp của đạo, vì vậy ở giáo phận ta đạo cũng ít có sức lan tỏa. Ít tương quan và thiện cảm với môi trường chung quanh. Thiếu khoan dung và bác ái đối với những người khác tôn giáo, khác quan điểm chính trị với chúng ta. Làm sao thực hiện được tâm nguyện của thánh Phaolô: trở nên mọi sự với mọi người nhằm loan báo Tin Mừng cứu độ cho họ. Dĩ nhiên, chúng ta cần có lập trường và quan điểm rõ rệt dựa trên Giáo huấn xã hội của Giáo Hội, nhưng đồng thời cũng phải có phong thái của Tin Mừng, tính nhân bản và lịch sự với mọi người. Trong mọi trường hợp, Bài giảng trên núi vẫn là tiêu chuẩn cho mọi suy tư, ứng xử và hành động của chúng ta.

* Hãy trân trọng BÀI VIẾT và khích lệ NHẤN NÚT thay lời CẢM ƠN!

Nhấn In

TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:  Icon_minitimeSun Nov 24, 2013 6:10 am
huongmuadong
DIỄN ĐÀN
TU ĐẠO VIỆT NAM
huongmuadong
Tước hiệu
Điều Hợp Viên
Điều Hợp Viên
online
online

Bài gửiTiêu đề: Re: TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:

TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:
TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ: 4. CHỨNG NHÂN CHO TÌNH YÊU NHƯNG KHÔNG

CHỨNG NHÂN CHO TÌNH YÊU NHƯNG KHÔNG

Nghèo khổ tự nó không có giá trị gì cả và chẳng ai mong muốn nó... Thật là một nỗi đau và nỗi nhục cho nhân loại hôm nay khi hàng triệu người vẫn còn bị cái nghèo đọa đày. Việc đẩy lùi nghèo khổ không phải chỉ là Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, mà còn là một đòi hỏi của niềm tin Kitô giáo.

Có hợp lý không để khấn giữ khó nghèo khi mọi người khác trong thế giới tìm cách thoát ra khỏi sự nghèo khổ ? Bên cạnh đó, nền văn hóa của chúng ta tập trung vào việc chiếm hữu và tiêu thụ hàng hóa vật chất cách điên cuồng. Có nghĩa gì không để chọn trở thành người nghèo ? Rõ ràng là, không ai chọn nghèo khổ vì chính nó cả.

Theo truyền thống, trong số những lý do được đưa ra cho sự lựa chọn khấn khó nghèo, xoay quanh những mối nguy hiểm của sự giàu có và những của cải vật chất đối với đời sống thiêng liêng của con người. Người ta chọn trở nên nghèo để giải thoát mình khỏi những gánh nặng và bận tâm của việc sở hữu và quản lý của cải vật chất. Khó nghèo được xem như một hình thái của đời sống khổ chế nhằm vun trồng các giá trị của sự siêu thoát, đơn sơ và tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Khó nghèo nhắm đến việc giải thoát con người khỏi sự huyên náo và bóng bẩy của tiền bạc và của cải để đặt mình cho việc chiêm ngắm những điều thiêng liêng và vĩnh cửu.

I- Một Tình yêu Nhưng không

Trong truyền thống Kitô giáo, sự chọn lựa khó nghèo tự nguyện bắt nguồn từ chính gương mẫu đời sống mà Đức Giêsu Kitô để lại cho chúng ta. Khi Đức Giêsu đến ở giữa chúng ta, Ngài đã quyết định được sinh ra, sống và chết như một người nghèo. Sự khó nghèo của Ngài không chỉ ở bình diện sở hữu nhưng căn bản là ở bình diện hiện hữu. Nhìn thoáng qua, người ta có thể nói rằng lối sống của Đức Giêsu như một người nghèo là một phương thế cho sứ vụ lữ hành truyền giảng Tin mừng của Ngài. Hơn nữa, lối sống nghèo phải làm cho lời rao giảng của Ngài trở thành đáng tin trong mắt nhìn của những kẻ nghe Ngài. Nhưng, vẫn còn có cái gì hơn thế nơi sự khó nghèo của Đức Kitô.

Thật hữu ích khi chúng ta nhìn lại nhận thức của thánh Phaolô về sự khó nghèo của Đức Kitô. Trong thư gửi tín hữu Philiphê, thánh Phaolô trình bày Đức Kitô như một người nghèo đến tận cùng. Thánh nhân minh họa điều này trong thánh thi về sự hủy mình ra không của Đức Kitô (2: 6-11). Trong thánh thi này, sự tự hủy của Đức Kitô hoàn toàn là một sự chọn lựa cá vị. Việc Ngài “hủy mình ra không” và “tự hạ mình” là những hành động tự nguyện. Chẳng có gì cho thấy Ngài bị áp đặt làm như thế. Ở đây thánh Phaolô diễn tả sự “hủy mình ra không” thật lạ lùng của Đức Kitô. Ngài vét rỗng tất cả những gì thuộc về Ngài như hữu thể “vốn dĩ là Thiên Chúa”, không chỉ bằng việc “trở nên giống phàm nhân” nhưng còn hơn thế, đó là “mặc lấy thân nô lệ”. Như sự thể hiện tột cùng của khó nghèo, Đức Kitô đã tự mình từ bỏ thiện hảo lớn lao nhất, là chính sự sống của Ngài. “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” “Trong thế giới thời thánh Phaolô chỉ có các thần linh mới được cho là sống mãi mãi. Do đó, đặc quyền không thể bị hư nát là đặc ân chỉ được dành riêng có các thần linh. Tuy nhiên, Đức Kitô đã không biến vị thế này thành mối lợi riêng của mình. Ngài đã không đòi hỏi để hành xử như Ngài đáng được như vậy. Trái lại, Ngài đã đón nhận một cách thế hiện hữu vốn không phải của Ngài bằng việc chấp nhận thân phận của một nô lệ, một tình thế bao gồm đau khổ và cái chết.”

Động lực thúc đẩy Đức Kitô tự khước từ hoàn toàn không gì khác hơn là tình yêu. Thánh Phaolô nhận ra rằng cái chết của Đức Giêsu được thúc đẩy bởi ý muốn của Chúa Cha. Thiên Chúa “cũng chẳng tha Con Một Ngài, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8:32). Nhưng, trong việc này, Thiên Chúa đã hành động vì tình yêu. “Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng.Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi.” (Rm 5:6-Cool. Rõ ràng, tình yêu của Thiên Chúa vén mở trong sự kiện này, hoàn toàn là nhưng không; tình yêu ấy không chỉ là cho không nhưng còn là không được yêu cầu và không xứng đáng đối với phận người chúng ta. Trong một thư khác, thánh Phaolô viết ngắn gọn nhưng có sức thuyết phục hơn về sự tự nguyện khó nghèo của Đức Kitô. “Anh em biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2 Cr 8:9).

Tóm lại, sự khó nghèo của Đức Kitô, trên hết là một mạc khải của tình yêu nhưng không của Thiên Chúa cho con người và thế giới. Nó là tình yêu tự quên mình và tự hạ mình. Nó là một tình yêu không giữ lại gì nhưng hiến trao vì lợi ích của người khác. Ý nghĩa khó nghèo mà người tu sĩ tuyên khấn cũng không kém gì điều đó. Lời khấn khó nghèo được hiểu là một cách biểu lộ tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, caritas, một món quà thuần túy được trao ban nhưng không. Những gì mà các tu sĩ nam nữ từ bỏ cách tự do, qua lời khấn khó nghèo, thì khác nhau từ nơi này đến nơi khác. Không có một thước đo phổ quát được chấp nhận về ý nghĩa thế nào là khó nghèo đối với người tu sĩ. Nó luôn luôn là một cái gì đó được xác định trong một bối cảnh cụ thể. Nhưng cũng giống như nhau, các tu sĩ được mời gọi để sống lời khấn khó nghèo như là một “phương tiện và dụng cụ” của tình yêu nhưng không của Thiên Chúa.

Thánh Phalô đã sống khó nghèo như thế trong cuộc sống riêng của Ngài và trong tác vụ như là một tông đồ. Ngài đã nêu gương về một tình yêu quên mình và tự hạ, thúc đẩy ngài từ khước ngay cả trong việc chấp nhận những gì ngài đáng được hưởng như việc tài trợ về tài chánh từ những người được hưởng nhờ tác vụ của ngài. Thay vào đó, thánh nhân đã kiếm sống bằng chính đôi tay của mình. Gương mẫu của ngài mời gọi chúng ta biết tránh bận tâm đến tư lợi trong những mối tương quan và công việc với những người mà chúng ta phục vụ, ngay cả khi những điều đó là hợp pháp và là đặc quyền của chúng ta. Đây là một thách đố lớn lao phải đáp ứng. Một mặt, trong nhiều nền văn hóa, người ta có khuynh hướng biếu nhiều món quà vật chất cho những vị hướng dẫn tinh thần và các mục tử, các tu sĩ đến độ làm cho họ bị hư. Mặt khác, trong nhiều xã hội, hầu như mọi thứ đều được chuyển thành hàng tiêu dùng, hay hàng hóa được bán theo giá cả. Không có gì là cho không cả. Trong cả hai trường hợp, một phản chứng của tình yêu nhưng không là cực kỳ quan trọng.

II- Chia sẻ vì Tình yêu

Sự khó nghèo của Đức Kitô không chỉ là “tự hủy” nhưng đồng thời cũng là trao ban chính mình vì tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với chúng ta. Sự tự hủy của Ngài đồng thời cũng là sự hiến dâng tất cả những gì Ngài là và Ngài có cho Thiên Chúa và cho thế gian. Điều này làm cho tình yêu nhưng không trở thành tích cực - đó là quà tặng chính bản thân.

Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ở Giêrusalem là một minh hoạ về sự am hiểu cách tích cực về sự khó nghèo của Đức Kitô (x. Cv 4:32-25). Nhiều thành viên của cộng đoàn đó, xét về mặt kinh tế, là những người nghèo. Hẳn là một số người trong họ có nhiều hơn những gì họ cần, do đó, họ đã từ bỏ và bán đi những thứ mình có vì nhu cầu của cộng đoàn. Họ đóng góp những tài sản mình có chung với nhau và đem phân phát tuỳ theo nhu cầu của mỗi người trong cộng đoàn. Vì họ chia sẻ với nhau bất kỳ thứ gì họ có, nên trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn. Họ làm phong phú lẫn nhau bằng chính sự khó nghèo của mỗi người. Chứng kiến đời sống chia sẻ của họ, dân ngoại đã thốt lên : “Nhìn xem họ thương yêu nhau là chừng nào”. “Làm sao mà những người Kitô hữu lại thương yêu nhau một cách nhanh chóng như thế.” Người ta đã hiểu việc chia sẻ căn bản giữa các Kitô hữu với nhau là tình yêu – đó là một sự diễn tả của tình yêu nhưng không.

Cũng thế, lời khấn khó nghèo trong thời đại của chúng ta, phải có nghĩa là sự chia sẻ yêu thương với người khác bất kỳ cái gì mình có. Trên thực tế, hình thức phổ biến nhất của lời khấn khó nghèo, cho tới nay, vẫn là việc để mọi sự làm của chung và chia sẻ chung với nhau. Không có ai giàu hơn cũng không có ai nghèo hơn người khác, nhưng mỗi người được cung cấp tùy theo nhu cầu của mình. Điều này giải thoát người tu sĩ khỏi sự ghen tỵ, tranh giành và chia rẽ vì lợi nhuận kinh tế của người này hơn người khác. Nó giúp họ phát triển một sự lệ thuộc lành mạnh vào Thiên Chúa và sự phụ thuộc lẫn nhau trong cộng đoàn. Lời khấn khó nghèo trong thực tế trở thành việc chia sẻ của cải trong sự phục vụ tình yêu của Chúa và tha nhân. Sự chia sẻ của cải như thế vượt lên trên phạm vi của những của cải vật chất. Điều này bao gồm việc chia sẻ trách nhiệm, năng khiếu, tài năng, khát vọng, kinh nghiệm thiêng liêng và ân sủng, lý tưởng tông đồ và công tác từ thiện.

Nghèo khó như là sự chia sẻ làm cho sự thực hành lời khấn khó nghèo trở nên tích cực và năng động. Sự chia sẻ chuyển đổi trọng tâm của người tu sĩ thành khả năng biết trao ban một cách tự nguyện cho người khác bất kỳ cái gì họ có và họ là. Khó nghèo bắt nguồn từ cuơng vị quản gia, khi ý thức rằng chỉ có Thiên Chúa mới là chủ của mọi sự và chúng ta không là gì khác hơn là người quản lý những quà tặng của Thiên Chúa. Một cách tích cực, nó làm cho các tu sĩ nam nữ trở thành những quản gia có trách nhiệm về những tài nguyên vật chất mà họ nắm trong tay để nhằm tới việc cải thiện cuộc sống của những người bị tước đoạt và thiếu thốn. Sự khó nghèo dẫn tới sự đơn giản. Nó thúc đẩy người tu sĩ sống một lối sống đơn giản để họ có nhiều hơn để chia sẻ. Thông qua các giá trị của việc chia sẻ, người tu sĩ có thể lớn lên trong tinh thần siêu thoát và lướt thắng tiềm năng gây chia rẽ của của cải vật chất ngay trong cộng đoàn của họ, cũng như giữa họ và những người mà họ phục vụ.

Sự chia sẻ là một phản chứng đối với đặc tính tích lũy của nền văn hoá hiện nay. Nó là một lời phê phán về sự tham lam, thích tích trữ và bủn xỉn. Nó là một giá trị nhằm điều chỉnh lại việc sử dụng phung phí và theo đuổi cách quá độ những của cải vật chất nơi những kẻ giàu có, không chú ý tới những nhu cầu và những đau khổ của người nghèo và tổn thất của sự cân bằng sinh thái. Sự chia sẻ là một minh chứng xác thực của tình yêu nhưng không - một tình yêu cho đi cách quảng đại và không mong chờ sự đáp trả.

III- Liên đới với người Nghèo

Điều thật mỉa mai là ở ngay giữa sự giàu có của thế giới, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo lại tiếp tục bị mở rộng thêm. Vô số người là nạn nhân của sự nghèo đói, của bạo lực tàn nhẫn, của sự đàn áp và bóc lột cách bất công. Mọi chuyện không trở nên tốt hơn đối với nhiểu người nghèo trên thế giới. Nếu lời khấn khó nghèo có nghĩa là trao ban của cải và bản thân vì sự sống của người khác, thì những người tuyên khấn khó nghèo không thể làm gì khác hơn là dành sự quan tâm cách đặc biệt tới người nghèo. Người tu sĩ được kêu gọi biểu lộ tình yêu nhưng không của Chúa đối với người nghèo. Họ được kêu gọi sống liên đới với người nghèo. Sự liên đới này có nghĩa là một sự cam kết gấp đôi.

Trước hết, điều đó có nghĩa là cam kết nhìn sự vật với nhãn quan của người nghèo. Điều này đòi hỏi người tu sĩ phải đi tới với người nghèo, để tiếp cận với họ, để bước vào thế giới của họ và để biết và hiểu số phận đau thương của họ. Nó sẽ có nghĩa là học để thấy sự việc từ quan điểm của người nghèo, dưới ánh sáng của những kinh nghiệm và đấu tranh, hy vọng và ước mơ của chính họ về một thế giới mới và tốt đẹp hơn. Một cách nghịch lý, người nghèo, ngoài thân phận yếu đuối của họ ra, lại có rất nhiều thứ để dạy người tu sĩ : khó nghèo là gì và trở nên nghèo khó nghĩa là gì, bao gồm cả ý nghĩa của việc tin, hy vọng yêu thương có ý nghĩa gì. Những người giàu có và quyền lực trên thế giới này có nhiều điều để học từ những người thiếu thốn và yếu kém ngay bên lề xã hội chúng ta.

Thứ đến, sống liên đới có nghĩa là nên một với người nghèo trong nỗ lực chiến thắng bất công, đàn áp, bóc lột, và xem đó như là chính nghĩa của Chúa. Nó đòi hỏi việc lắng nghe “những tiếng kêu khóc” của người nghèo và nối kết họ trong những nỗ lực của họ để gióng lên tiếng nói và biểu hiện ở nơi công cộng “niềm vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng” của họ. Đau đớn thay những nỗi thống khổ này thường không được những người nắm vai trò chủ chốt và có quyền quyết định trong xã hội của chúng ta lắng nghe và đoái hoài tới. Sống khó nghèo còn là liên đới với người nghèo trong những đấu tranh và hành động của họ nhằm thay đổi số phận, không chỉ vì sự tốt đẹp của họ nhưng còn vì công ích của cộng đồng và xã hội mà họ thuộc về nữa.

Không có câu trả lời dễ dàng là làm như thế nào để sự cam kết gấp đôi này được hình thành cách cụ thể trong thực tế. Việc này đòi hỏi một tiến trình phức tạp, nhưng rõ ràng là nó phải được xác định một cách cụ thể trong mỗi trường hợp tùy theo từng bối cảnh đặc biệt. Chính những tu sĩ đôi khi có thể nghi ngờ về vai trò của sự liên đới với người nghèo trong việc sống lời khấn khó nghèo của mình. Trong sự chọn lựa này, có thể họ không nhận được sự nâng đỡ cần thiết từ người khác. Họ có thể bị những kẻ có thế lực tra vấn, bách hại hoặc gạt ra bên lề vì sự cam kết của họ dành cho người nghèo. Nhưng họ chỉ có thể được an ủi bằng niềm tin trong tâm hồn rằng trở nên liên đới với người nghèo là một phần chủ yếu của việc làm chứng cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa; chỉ khi ở với và ở giữa người nghèo, lời khấn khó nghèo mới tìm thấy đích đến và sự diễn đạt cao quí nhất của tình yêu nhưng không.

Tóm lại, lời khấn khó nghèo là một chứng từ về tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Nó là sự tham dự vào sứ vụ của Thiên Chúa, đó là tình yêu của Ngài tuôn tràn trên thế giới một cách tự do và quảng đại.

IV- Nhìn lại cách thế cầu nguyện

Tuần tĩnh tâm là thời gian thuận lợi để chúng ta nhìn lại bản thân, nhìn lại công tác mục vụ, mối tương giao với giáo phận, với đồng nghiệp, với giáo dân, với xã hội, với nhà cầm quyền các cấp. Cái gì được, cái gì chưa, cái nào thành công, cái nào thất bại và trong tương lai nên chọn giải pháp nào?

Đây cũng là thời gian ân sủng để nhìn lại mối tương quan đối với Chúa: ta đã sống lý tưởng linh mục như thế nào, ta đã thi hành giáo huấn của Chúa ra sao? Đặc biệt, đây là cơ hội để chúng ta cùng nhìn lại cách thế cầu nguyện. Nếu được phép giản lược, chúng ta có thể giản lược thế giới cầu nguyện sâu thẳm vào mấy điểm sau đây:

* Cầu nguyện: Cố gắng vươn lên của con người

- Khẩu nguyện

- Tâm nguyện

* Cầu nguuyện : Hành động của Thiên Chúa.

- Hố thẳm im lắng

- Lắng nghe Chúa nói và để Chúa dẫn đường

1- Cố gắng vươn lên của con người

Giống như trong các tương quan và giao tiếp giữa người với người, việc cầu nguyện của chúng ta thường bắt đầu ở cấp độ âm thanh. Nó đòi hỏi phải nói, trình bày, đối thoại, thân thưa với Chúa. Do đó, cầu nguyện thường được định nghĩa như cuộc nói chuyện thân tình với Chúa. Ở bước đầu, nội dung cầu nguyện chủ yếu mang tính chức năng. Chúng ta đến với Chúa trong cầu nguyện vì chúng ta cần xin Ngài một điều gì đó. Khi cầu nguyện, chúng ta đặt giãi bày với Chúa những bận tâm và nhu cầu của chúng ta. Do đó đối với nhiều người, cầu nguyện thực tế chỉ là cầu xin Chúa điều gì đó hoặc là cám ơn Chúa vì những ân huệ đã nhận lãnh. Lời cầu nguyện của chúng ta chủ yếu là những lời cầu khẩn và tạ ơn.

Trong khoảng gần nửa thế kỷ vừa qua, tại Việt Nam, thánh ca phát triển rất mạnh, cả về phẩm lẫn lượng. Ít có tôn giáo nào và ít nơi nào trong Giáo hội Công giáo mà phong trào thánh ca phát triển mạnh như tại VN chúng ta. Thánh ca đã phong phú hóa các buổi cầu nguyện cũng như thánh lễ. Trong tuần chầu lượt và các lễ lớn, nhiều xứ còn có thêm đội trắc, đội kèn, đội trống… Tất cả những cái đó đã tạo nên một bầu không khí Lễ Hội.

Tuy nhiên, bầu không khí Lễ Hội đó chỉ giúp phát triển khẩu nguyện và hình thức cầu nguyện tập thể, nhưng nhiều khi không những không tạo bầu khí thuận tiện cho cầu nguyện cá nhân, mà rất có thể còn phương hại đến tinh thần cầu nguyện đích thực. Nếu không biết nội tâm hóa lời kinh và tiếng hát trong kinh nguyện, chúng ta có nguy cơ vụ hình thức, dừng lại ở những náo nhiệt bên ngoài mà chưa đi vào tâm tình cầu nguyện. Rất có thể sẽ bị Chúa cảnh cáo: “Dân này thờ Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta”.

Đã đến cần bổ túc cầu nguyện tập thể và khẩu nguyện bằng hình thức cầu nguyện mang chiều kích cá vị hơn. Chúng ta biểu lộ những niềm vui và những nỗi đau của mình; chúng ta hát lên những lời ngợi khen và cảm tạ Chúa; chúng ta hướng về Chúa để thờ phượng và tôn thờ Ngài. Chúng ta bày tỏ với Ngài tình yêu của chúng ta, trong thinh lặng, âm thầm, nhưng với trọn tâm trí.

Với trọn niềm tin yêu, chúng ta âm thầm hướng về Chúa trong suy tư và hồi niệm sâu xa. Chúng ta thực hành tâm nguyện. Cầu nguyện trở thành hành động nâng tâm trí lên với Chúa và kết hợp, tâm sự với Ngài. Hơn nữa, chúng ta cũng học để hướng lòng về Đức Chúa với những cảm xúc lớn nhỏ. Chúng ta học tập để dần dần đi tới cảm nguyện. Vào thời điểm này, cầu nguyện có thể được định nghĩa như là nâng tâm hồn lên với Chúa.

Tuy nhiên, trong tất cả tiến trình này, chính chúng ta vẫn đóng vai trò tích cực và chủ động trong sự thông hiệp. Chủ yếu là chúng ta nói với Chúa, và Chúa là người lắng nghe chúng ta. Cầu nguyện hiểu như là việc nói với Chúa. Điều này không có gì sai cả, nhưng chưa đủ. Xét cho cùng, cầu xin Chúa cho những nhu cầu của chúng ta và của mọi người trên thế giới cũng là cách chúng ta tuyên xưng tình yêu của Chúa dành cho chúng ta vậy. Có lẽ, đây là cách cầu nguyện của hầu hết mọi người, cả trong cầu nguyện riêng cũng như cầu nguyện chung. Thậm chí cả khi chúng ta thực hành tâm nguyện và cảm nguyện, thì lời cầu nguyện của chúng ta vẫn chủ yếu là việc làm của con người. Đó là chúng ta nghĩ về Chúa và hướng về Chúa với những bài ca tiếng hát hay tâm tình cảm xúc. Tóm lại, cầu nguyện vẫn diễn ra phần lớn như hành vi của con người.

Nhưng, “cầu nguyện như những gì chúng ta làm” này mới chỉ là một nửa của cầu nguyện. Chúng ta cũng cần phải trau giồi một nửa kia của cầu nguyện để cầu nguyện của chúng ta toàn diện và trọn vẹn hơn. Nếu không, mối tương quan hiệp thông của chúng ta với Chúa mới chỉ có một chiều.

2- Một nửa khác của Cầu nguyện

Vậy thì một nửa kia của Cầu nguyện là gì ? Nó nhắm tới cầu nguyện như là hành động của Thiên Chúa. Nó qui chiếu tới điều mà Thiên Chúa thực hiện hoặc chuyển đạt trong cầu nguyện. Nó nói đến việc mà Thiên Chúa cho xảy ra trong lúc người ta cầu nguyện. Trong tình yêu cũng như trong truyền thông, tha nhân phải chiếm vị trí trung tâm. Điều này cũng đúng trong cầu nguyện. Thiên Chúa và điều Ngài thực hiện cho chúng ta trong cầu nguyện phải quan trọng hơn nhiều so với những gì tự chúng ta cố gắng làm khi cầu nguyện. Ví dụ, trong khi chúng ta có khuynh hướng nói thật nhiều với Chúa khi cầu nguyện thì Chúa lại quan tâm nhiều hơn đến việc để Ngài nói với chúng ta. Chính Ngài là Đấng muốn tỏ mình ra cho chúng ta nhiều hơn nữa.

Theo đó, vai trò của chúng ta khi cầu nguyện phải là lắng nghe nhiều hơn nữa tiếng của Chúa đang nói trong tâm hồn mình, dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần, trong lời Kinh Thánh, trong những kinh nghiệm cá nhân cũng như qua các biến cố lịch sử. Điều này đòi hỏi chúng ta phải đợi chờ Chúa trong thinh lặng, trong sự chú tâm tới cách thế Chúa biểu lộ sự hiện diện và tình yêu của Ngài cho chúng ta. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tĩnh lặng, “thụ động” và đón nhận Thiên Chúa trong cầu nguyện.

Đây chính là một nửa kia của cầu nguyện mà các Kitô hữu, nhất là linh mục, tu sĩ chúng ta cần trau giồi. Thật vậy, nếu muốn lớn lên trong đời sống tâm linh, trong mối tương quan – tình yêu với Thiên Chúa, chúng ta phải cố gắng thực hiện “nửa kia của cầu nguyện”.



3- Những điểm hữu ích

Nhưng, tại sao chúng ta thất bại khi trau giồi thêm cho phần nửa kia của cầu nguyện này ? Sau đây là một số điểm giúp đạt tời thành công trong việc trau dồi nó.

Tôi thiết nghĩ, trước tiên là vấn đề về cách chúng ta quản lý thời giờ và năng lực khi cầu nguyện. Chúng ta có khuynh hướng làm vội vã cho qua những khoảnh khắc hiệp thông với Chúa; chúng ta trở thành những diễn viên chính trong cầu nguyện. Đáng lẽ ra không nên làm như vậy, nhưng thường xuyên lại xảy ra như thế. Thời gian và năng lực vốn hạn chế dành cho việc cầu nguyện, thế mà chúng ta lại dùng vào việc nói với Chúa về những mối bận tâm và chương trình riêng của mình, rồi hầu như không có thời gian và năng lực cho việc lắng nghe Chúa nói nữa. Nếu chúng ta muốn trau giồi nửa kia của cầu nguyện, chúng ta phải phân chia năng lượng và thời gian cầu nguyện thành hai phần.

Thứ đến, đó là vấn đề về thái độ cơ bản trong mối tương quan giao tiếp cá vị của chúng ta không chỉ với Chúa nhưng còn với tha nhân nữa. Trong sự giao tiếp đó, chúng ta quan tâm hơn đến việc mình được người khác lắng nghe hay là để mình lắng nghe người khác nhiều hơn? Chúng ta có mong mỏi để nghe điều mà người khác đang cố gắng nói với chúng ta không? Nếu chúng ta cố gắng tích cực lắng nghe nhiều hơn điều mà người khác nói, chắc chắn chúng ta cũng sẽ khao khát để lắng nghe tiếng Chúa hơn nữa.

Thứ ba, đó là vấn đề của sự chọn lựa cách tiếp cận của chúng ta với Thiên Chúa khi cầu nguyện. Chúng ta đến với Chúa khi cầu nguyện vì lòng yêu mến hay vì nhu cầu của mình? Có cách cầu nguyện vì nhu cầu, nhưng cũng có cách cầu nguyện vì tình yêu. Trong cách thứ nhất, cầu nguyện có nghĩa là sự giãi bày những nhu cầu của chúng ta với Chúa, còn trong cách thứ hai, cầu nguyện có nghĩa là bày tỏ tình yêu của chúng ta đối với Người. Chúng ta là bạn hữu của Đức Kitô và tình yêu của Ngài đối với chúng ta là tình yêu của một người bạn.

Đức Giêsu đã gọi các môn đệ là bạn hữu, hẳn là vì Ngài đã cho các ông biết mọi điều Ngài nghe biết nơi Chúa Cha (Ga 15:15). Tình bằng hữu dẫn tới việc thổ lộ tâm tình với nhau. Nhưng thổ lộ tâm tình như thế chỉ có thể thực hiện được trong sự thinh lặng. Do đó, khi việc cầu nguyện của chúng ta được thúc đẩy bởi tình yêu thì chúng ta được dẫn tới yên lặng và tĩnh mịch trong sự thâm giao với Chúa, để chú tâm vào Ngài, lắng nghe Ngài mạc khải.

4- Làm bạn với sự thinh lặng

Cuối cùng, chúng ta có thể trau giồi phần nửa kia của cầu nguyện nếu chúng ta kết bạn với sự thinh lặng trong đời sống cầu nguyện. Người ta phải học để biết tiếp nhận cũng như yêu mến sự thinh lặng. Thinh lặng diễn ra trong cầu nguyện bằng hai cách.

Cách thứ nhất, có nhiều khi chúng ta không biết phải nói gì trước sự hiện diện của người mà chúng ta yêu mến. Cũng thế, có những lần chúng ta cũng chẳng biết phải nói gì với Chúa trong khi cầu nguyện. Khi điều này xảy ra, chúng ta được mời gọi để đón nhận nó trong thinh lặng.

Có những lý do tốt đẹp sau đây. Trước hết, chúng ta cần thinh lặng để đi sâu vào nội tâm, để nghe được những nhu cầu và những khát vọng sâu thẳm nhất của mình. Thứ hai, thinh lặng giúp chúng ta nhìn sâu hơn vào thế giới để khám phá ra những nơi đang cần đến tình yêu cứu độ của Chúa. Thứ ba, thinh lặng thúc đẩy chúng ta tín thác vào Thánh Thần trong lời cầu nguyện của mình.

Về điều này, không có gì an ủi chúng ta hơn những lời sau đây của Thánh Phaolô: “Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả. Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8:26-27). Trong cầu nguyện, chúng ta cần ẩn mình đi để Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho chúng ta và trong chúng ta.

Mặt khác, có những lần cầu nguyện, chúng ta phải đối diện với một Thiên Chúa dường như thinh lặng. Có những khi chúng ta chẳng nghe thấy gì cả và cũng chẳng nhận được gì từ nơi Ngài. Tuyệt đối chẳng có chi, ngoại trừ sự thinh lặng. Khi chúng ta bị buộc phải thinh lặng như vậy, chúng ta phải học để yêu mến nó. Tôi tin rằng sự thinh lặng như thế nhiều khi rất cần thiết để Lời của sự sống và khôn ngoan được bén rễ trong tâm hồn chúng ta, để sự can đảm và sức mạnh của Thiên Chúa được đâm rễ sâu hơn trong cõi sâu thẳm nhất của chúng ta để chúng ta có thể làm được nhiều hơn nữa cho tha nhân. Trong hố thẳm của thinh lặng và chiều sâu tâm linh, chúng ta sẽ gặp gỡ Thiên Chúa toàn năng, vô thủy, vô chung, nhưng đầy nhân hậu, yêu thương và thật gần gũi.

Sau cùng, một Thiên Chúa thinh lặng dạy chúng ta biết kiên trì trong việc cầu nguyện phát xuất từ tình yêu, tình yêu của Ngài cho chúng ta và tình yêu của chúng ta hiến dâng Ngài. Ngài dạy chúng ta biết mở lòng mình ra và trở nên ngoan ngoãn dưới sức mạnh sáng tạo của tình yêu Thiên Chúa. Khi chúng ta hoàn toàn đi vào hố thẳm của thinh lặng, Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta một món quà tuyệt vời: một cơ hội họa hiếm để trở nên hoàn toàn nhạy cảm với tình yêu của Ngài và nhờ đó chúng ta được tái tạo. Chính khi chúng ta ngoan ngoãn nhất, khi chúng ta phó thác chính mình cho Chúa trong cầu nguyện, đó là lúc chúng ta có kinh nghiệm sâu xa nhất về sức mạnh tình yêu của Ngài.
* Hãy trân trọng BÀI VIẾT và khích lệ NHẤN NÚT thay lời CẢM ƠN!

Nhấn In

TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:  Icon_minitimeSun Nov 24, 2013 6:12 am
huongmuadong
DIỄN ĐÀN
TU ĐẠO VIỆT NAM
huongmuadong
Tước hiệu
Điều Hợp Viên
Điều Hợp Viên
online
online

Bài gửiTiêu đề: Re: TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:

TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:
TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ: (5) Sứ Vụ Loan Báo Tin Mừng

SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG

Hàng Giáo phẩm Việt Nam được chính thức thành lập ngày 24 -11-1960, tuy nhiên hai mươi năm sau Hội Đồng Giám mục Việt Nam mới có cuộc họp đầu tiên trên bình diện cả nước. Thể theo tinh thần đối thoại của công đồng Vatican 2 và nhất là để trả lời cho những thách đố mới mà đất nước đặt ra cho Giáo hội vào thời điểm đó, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã công bố lá Thư Mục vụ năm 1980, mà tựa đề đã bao hàm một định hướng mục vụ : “Sống Phúc âm giữa lòng Dân tộc”.

Các Giám mục thẳng thắn tuyên bố rằng Tin Mừng không đồng hoá với bất cứ nền văn hoá, hệ thống kinh tế hay thể chế chính trị nào. Tin Mừng cũng chẳng cần một mảnh đất riêng nào để sống. Nhưng nhiệm vụ của các Kitô hữu là phải sống và làm cho Tin Mừng được bén rễ trong mọi nền văn hoá và cơ chế kinh tế, chính trị: “Là Hội Thánh trong lòng dân tộc Việt Nam, chúng ta quyết tâm gắn bó với vận mạng quê hương, noi theo truyền thống dân tộc hoà mình vào cuộc sống hiện tại của đất nước (...).Vậy chúng ta phải đồng hành với dân tộc mình, cùng chia sẻ một cộng đồng sinh mạng với dân tộc mình, vì quê hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Người, đất nước này là lòng mẹ cưu mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, dân tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta để phục vụ với tính cách vừa là công dân vừa là thành phần Dân Chúa”.

Đường hướng mục vụ gắn bó với dân tộc này được đánh giá cao và đã đem lại nhiều kết quả tích cực. Một số tài liệu nghiên cứu của cơ quan Nhà Nước công nhận chủ trương dấn thân phục vụ của Kitô giáo đã ảnh hưởng trên đời sống của con người Việt Nam hôm nay. Vào năm 1992, nhóm nghiên cứu khoa học cấp quốc gia về đề tài “Anh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay”, công nhận ảnh hưởng tích cực của Công giáo đối với đông đảo thanh thiếu nhi có đạo và cả thanh thiếu nhi không theo đạo: “Các hình thức tổ chức hoạt động Thiên Chúa giáo đa dạng, phong phú, hấp dẫn thanh thiếu nhi, lôi cuốn đông đảo tuổi trẻ vào các loại hình: toạ đàm, giảng thuyết, cầu nguyện, dạy nghề, hoạt động văn hoá nghệ thuật, tham quan du lịch, hoạt động từ thiện, hoạt động chữ thập đỏ, thăm hỏi cứu trợ người nghèo, người cô đơn không nơi nương tựa, nhằm một phần giải đáp lợi ích thanh thiếu nhi, mặt khác xác lập mục tiêu hình thành thế giới quan hữu thần và hệ tư tưởng tôn giáo”.

Một cách tổng quát hơn, bản nghiên cứu nhìn nhận: “Trong khi xã hội mới hiện thực mà chúng ta đang xây dựng còn nhiều hạn chế của các mối quan hệ kinh tế – xã hội thì Giáo hội Thiên chúa giáo (kể cả trên thế giới và ở Việt Nam) lại cố gắng xây dựng (và thực tế đã xây dựng được) cho giáo dân của mình những mối quan hệ xã hội tốt đẹp, làm cho giáo dân và toàn thể giáo hội sống Phúc âm được trong lòng dân tộc, giáo dục giáo dân sống “tốt đạo đẹp đời”. Nhiều vùng Công giáo giữ được và phát triển tốt các phong trào xã hội, sản xuất trị an, quốc phòng, văn hoá, giáo dục, v.v…”.

Chúng ta có quyền vui mừng và hãnh diện với những đánh giá tích cực ở trên, tuy nhiên không thể tự mãn và ngủ quên nơi một vài thành tích quá khứ. Hiện nay, xì ke ma tuý nói riêng và tệ nạn xã hội nói chung đã trở thành một nỗi lo của cả nước và cũng đang xâm nhập vào các vùng Công giáo. Phải chăng đây là một trong những thách đố mà xã hội Việt Nam thời mở cửa đang cần sự tiếp tay của mọi thành phần Dân Chúa? Với tư cách mục tử chúng ta nên và phải phản ứng ra sao? Đâu là hướng giải quyết trên bình diện cá nhân và tập thể?

Chính trong viễn tượng đó, cuộc thảo luận của chúng ta về “Sứ vụ loan báo Tin Mừng” sẽ xoay quanh mấy điểm chính sau nay:

• Mục vụ giáo xứ .

• Tân Phúc âm hoá.

• Sứ vụ biên cương.

1- Mục vụ giáo xứ.

Nói một cách giản lược, công tác căn bản của mục vụ giáo xứ là tiếp tục loan báo Tin Mừng cho những người đã và đang tin. Bộ Giáo luật xác định: “Giáo xứ là một cộng đoàn tín hữu được thiết lập cách bền vững ở trong Giáo hội địa phương, và công tác mục vụ được uỷ thác cho cha Sở, dưới quyền của Giám mục giáo phận” (515,1).

Cha Sở là chủ chăn riêng của giáo xứ đã được trao phó và thi hành công tác mục vụ dưới quyền của Giám mục giáo phận. “Cha Sở có bổn phận dự liệu để Lời Chúa được rao truyền cách toàn vẹn cho mọi người đang cư ngụ trong giáo xứ; vì thế phải lo giảng dạy giáo dân về các chân lý đức tin, nhất là nhờ việc giảng trong các ngày Chúa nhật và các Lễ buộc và việc dạy giáo lý ; cần ủng hộ các chương trình cổ động tinh thần Phúc âm kể cả trong lãnh vực công bằng xã hội; cần để ý cách riêng việc giáo dục công giáo cho thanh thiếu niên; cố gắng bằng mọi phương tiện có thể, với sự cộng tác của các tín hữu, để sứ điệp Tin Mừng tới đến với những người lơ là việc đạo hay không tuyên xưng đức tin chân thật nữa” (điều 528, 1).

Trên thực tế, công tác mục vụ giáo xứ thường quy tụ chung quanh các lãnh vực chính sau đây:

• Mục vụ thiếu nhi

• Mục vụ giới trẻ

• Mục vụ ca đoàn

• Mục vụ Hội đoàn

• Mục vụ cho người cao niên.

• Mục vụ cho người trưởng thành

• Mục vụ hôn nhân

• Mục vụ gia đình

• Mục vụ chuyên biệt: giáo chức, y tế, xã hội, doanh nghiệp, báo chí, văn nghệ sĩ, trí thức, v.v.

Việc đầu tư vào vốn con người để nâng cao trình độ và khả năng sử dụng kỹ thuật được coi là một trong những nhân tố quyết định của việc phát triển. Chính ở nơi đây, chúng ta gặp thấy nhiều thách đố cam go đang đặt ra cho Việt Nam nói chung và giới Công giáo nói riêng. Nếu đảm nhận mục vụ gio xứ, thì tu sĩ Đa Minh nên đặt ưu tiên cho loại mục vụ no? Đâu là đóng góp của Dịng Đa Minh cho mục vụ gio xứ?

Một trong những điểm nổi của Giáo hội Việt Nam là lòng sùng đạo, tổ chức giáo xứ, hội đoàn, kinh lễ, rước xách sầm uất .... Tuy nhiên, nếu bình tâm suy nghĩ chúng ta sẽ không khỏi băn khoăn tự hỏi: đó là lối giữ đạo theo tập tục cổ truyền hay đường hướng sống đạo theo tinh thần Vatican II? Thiết tưởng đã đến lúc cần nghĩ đến các trung tâm tĩnh tâm và đào sâu chiều kích tâm linh.

Tuyên bố bế mạc Đại hội lần thứ 7 của Liên hiệp Hội đồng Giám mục Á châu đã sáng suốt đưa ra một tầm nhìn và “chuyển hướng đặt nổi tính nội tâm sâu xa ngõ hầu Giáo hội trở thành một cộng đoàn cầu nguyện sâu xa, trong đó chiêm niệm nối kết hài hòa với bối cảnh thời đại và các nền văn hóa của dân tộc. Gắn liền với đời thường, cầu nguyện đích thực phải làm phát sinh nơi các tín hữu chứng từ trong sáng về yêu thương và phục vụ”.

Chương trình đào tạo thần học chiều sâu cho giáo dân và chương trình mục vụ chuyên biệt cho từng ngành nghề trở thành nhu cầu khẩn cấp. Hơn bao giờ hết, lời tâm huyết sau đây của đức Gioan Phaolô II phải trở thành ưu tiên mục vụ của chúng ta: “Tôi xin hiệp ý với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đề nghị thành lập ở cấp giáo phận hay cấp quốc gia những trung tâm đào tạo giáo dân, để chuẩn bị họ làm công việc thừa sai như những chứng nhân cho Đức Kitô tại Á Châu ngày nay” (EA 45c).

2- Ý nghĩa của Tân Phúc-âm-hóa.

Trong hai thập niên vừa qua, “Tân Phúc-âm-hóa” đã trở thành một đề tài quan trọng, thường xuyên được đức Gioan Phaolo II đề cập trong các văn kiện, cũng như trong các chuyến viếng thăm mục vụ ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt tại Mỹ châu Latinh và Âu châu. Sau đó, trước ngưỡng ngàn năm thứ ba, “Tân Phúc-âm- hóa” đã trở thành chương trình mục vụ chung của toàn thể Giáo hội Công giáo.

Đứng trên phương diện suy tư thần học, diễn ngữ “Tân phúc-âm-hóa” (Nova evangelisatio, Nouvelle évangélisation, New evangelisation hay Nueva evangelización) khá hàm hồ và có thể gây ngộ nhận như thể muốn phủ nhận những gía trị của công cuộc rao giảng Tin Mừng hay truyền giáo trước đây. Trên thực tế một số người đã dùng lẫn lộn chữ “tân” với chữ “tái”. Vô tình đã đồng hóa “tân phúc-âm-hóa” với “tái phúc-âm-hóa”. Như vậy, phải chăng đã gián tiếp cho rằng việc rao giảng Tin Mừng trước đây có những thiếu sót cơ bản, sai lạc hoặc không còn hiệu năng, cho nên phải “tái phúc-âm-hóa” hoặc công cuộc rao giảng Tin Mừng bị gián đoạn, nên bây giờ phải tái tạo hoàn toàn, xóa bàn làm lại tất cả và từ đầu?

Không ai có thể phủ nhận những giới hạn, thiếu sót và khuyết điểm của việc rao giảng Tin Mừng trong giai đoạn xâm chiếm thuộc địa của các nuớc Tây phương tại Châu Á, Châu Phi và Nam Mỹ. Nhưng bên cạnh một số “bóng đen” dày đặc và đau lòng, còn có rất nhiều ưu điểm và “ánh sáng rạng ngời”. Chính vì vậy, việc rao giảng Tin Mừng hôm nay không chủ trương triệt để xóa bàn làm lại, hoặc chối từ các gia sản và gía trị của truyền thống. Ngoài ra, Hội Thánh không bao giờ bao giờ ngừng loan báo Tin Mừng, mặc dù cường độ và mức độ có thể khác nhau tuỳ theo hoàn cảnh. Hiểu như vậy, yêu cầu căn bản hôm nay là “gạn đục khơi trong” gia tài truyền thống, để rồi cố gắng kiện toàn và thích nghi với những yêu sách mới của thời đại.

Về phương diện lịch sử, diễn ngữ “tân phúc âm hoá” có một xuất xứ khá rõ rệt. Trong chuyến viếng thăm mục vụ Ba Lan lần I, đức Gioan Phaolô II đã dành ba ngày cuối cùng cho Tổng giáo phận Cracovie. Sáng thứ bảy, ngày 9 tháng 6 năm 1979, ngài đến Mogila, một tu viện Xitô cổ kính được xây dựng từ thế kỷ XIII, để gặp gỡ giới công nhân. Tu viện nằm trên một ngọn đồi, đối diện với Nowa Huta, một thành phố thợ thuyền Xã hội chủ nghĩa đầu tiên của Ba Lan, nơi sinh sống của khoảng 200.000 dân, đa số là công nhân trẻ.

Trong bài giảng lịch sử nói trên cũng như một số bài diễn văn sau đó, hai từ “tân” và “tái phúc âm hoá” được sử dụng đồng thời và lẫn lộn. Một số ý kiến phản hồi yêu cầu không nên lẫn lộn “tân phúc-âm-hóa” với “tái phúc-âm-hóa”. Có lẽ đề nghị này được đức Gioan Phaolô II tiếp thu. Điều chắc chắn là chỉ ít lâu sau, trong các văn kiện chính thức người ta chỉ thấy diễn ngữ “tân phúc âm hoá” và không còn sử dụng diễn ngữ “tái phúc âm hoá”...

Ngỏ lời trước hội nghị các Giám-mục Mỹ châu La-tinh họp tại Port-au-Prince, Haiti, ngày 9 tháng 3 năm 1983, đức Gioan Phaolô II xác quyết rõ rệt quan niệm “tân phúc âm hoá” nói trên: “Việc kỷ niệm 500 năm loan báo Tin Mừng (tại Mỹ châu La-tinh) sẽ có một ý nghĩa tròn đầy nếu đi kèm với hành động dấn thân của quý chư huynh Giám mục, cùng với hàng linh mục và giáo dân; dấn thân, không phải để tái phúc-âm-hóa (re-evangelización), mà là tân phúc-âm-hóa (nueva evangelización). Mới trong sự nhiệt thành, trong phương pháp, trong lối diễn tả”.

Xem như vậy, ý nghĩa chữ “tân” trong diễn ngữ “tân phúc-âm-hóa” không thuộc về bản chất và nội dung của Tin Mừng, mà đúng hơn ám chỉ khả năng lãnh hội, lối trình bày, cách thế diễn tả Tin Mừng, cũng như công cuộc hội nhập văn hoá, đường lối sống Đạo và tinh thần dấn thân của các Kitô hữu. Trước tình trạng thụ động, thờ ơ, buông xuôi, hờ hững... của rất nhiều người Công giáo hiện nay đối với sứ vụ loan truyền Tin Mừng, yêu cầu tiên quyết là làm sao tạo được một khí thế và nhiệt thành mới. Hơn bao giờ hết Giáo hội cần những tín hữu biết đào sâu niềm tin, sống trung thực với lý tưởng Kitô giáo và can đảm, hăng say, nhiệt tâm chuyển đạt nó cho những ngừơi chung quanh.

Nhưng để thực hiện tốt sứ vụ đó trong một xã hội phức tạp, đa dạng và đầy biến động, ngoài lòng nhiệt thành nói trên, còn đòi hỏi phải biết xử dụng những phương pháp thích hợp. Do đó, nói đến tân phúc-âm-hóa là nói đến việc đổi mới phương pháp, não trạng và tâm thức ngõ hầu có thể loan báo Lời Chúa hữu hiệu hơn cho con người ở thời đại tân tiến này. “Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ (...). Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu mới” (Lc. 5,37-38), Đức Kitô đã không căn dặn chúng ta như thế sao?

Nói cách khác, thách đố của “tân phúc-âm-hóa” một mặt cố gắng để ánh sáng Tin Mừng chiếu rọi vào các nền văn hoá, mặt khác đưa ra những cách thế hiểu Đạo, sống Đạo, diễn tả Đạo bằng chất liệu riêng của mỗi nền văn hoá. Ngoài việc đề cao phương pháp và nhiệt tâm mới, vai trò của giáo dân được đặc biệt đề cao. Đức Gioan Phaolô II viết: “dù rằng các hình ảnh của Tin Mừng về muối, ánh sáng và men được xử dụng để ám chỉ tất cả các môn đệ Đức Kitô, nhưng chúng được áp dụng một cách đặc biệt cho người giáo dân. Đây là một biểu tượng mang nhiều ý nghĩa, vì không những diễn tả việc tham gia và hội nhập sâu xa của người giáo dân vào thực tại trần thế và cộng đồng nhân loại, mà nhất là còn nói lên điểm mới mẻ và độc đáo về ý hướng loan báo Tin Mừng cứu độ”.

Đâu là lãnh vực và công tác tân phúc âm hoá ở Việt Nam hôm nay? Phải chăng cần đặc biệt lưu ý đến những người gốc Công giáo, nhưng đang gặp khủng hoảng niềm tin hay đã xa rời Đạo? Cũng có thể là các trường hợp rối vợ, rối chồng hay những người Công giáo không thể sống và sinh hoạt bình thường trong Hội Thánh vì lý do địa lý, xã hội hay nghề nghiệp? Chúng ta có thể và phải làm gì?

3- Sứ vụ biên cương

Sứ vụ biên cương hay “truyền giáo” là rao giảng Tin Mừng cho những người chưa tin, chưa nghe biết Tin Mừng hay cố gắng làm cho giá trị Tin Mừng thấm nhập vào các lãnh vực văn hoá, chính trị, khoa học, xã hội …. Ơn gọi thừa sai đòi hỏi chúng ta phải thể hiện tính lữ hành, đặc tính lưu động, không ngừng di chuyển về những biên cương mới. Chính việc khám phá và hành động dấn thân vào các biên cương mới này biểu lộ việc chọn lựa ưu tiên trong sứ vụ loan báo Tin Mừng. Dưới đây là một vài biên cương tiêu biểu:

a)- Biên cương của bất công, nghèo đói và loại trừ. Toàn cầu hoá đã làm giàu cho nhân loại, nhưng cũng làm cho hố phân cách giàu nghèo mỗi ngày sâu rộng hơn. Chưa bao giờ nhân loại giàu có, nhiều tiện nghị và khả năng kỹ thuật như hiện nay, nhưng đồng thời nhiều thành phần, nhiều nước và nhiều vùng của thế giới hôm nay bị đẩy vào tình trạng loại trừ, nghèo đói, bạo lực và chết chóc. Họ là những người nghèo, những người kém may mắn, các dân tộc ít người, những người thất nghiệp, những người di dân. Về mặt xã hội, Á châu hiện nay vừa là lục địa có tăng trưởng kinh tế cao, vừa là vùng đất của nghèo khổ, bóc lột, bất công, áp bức, vi phạm nhân quyền ...

Theo ước tính, hiện tại thành phố HCM có hơn 2.000.000 di dân. Khoảng 60% số di dân nói trên có việc làm và 40% còn lại bị xếp vào hạng thất nghiệp. Rất nhiều vấn đề xã hội phát sinh do hiện tượng di dân tự phát nói chung và đặc biệt từ nhóm “di dân thất nghiệp”. 60% lao động trẻ em ở thành phố cũng thuộc nhóm di dân naỳ. Không thể loan báo Tin Mừng hôm nay mà lại hờ hững trước thực trạng xã hội này.

b)- Biên cương giữa sống và chết. Căn bệnh thế kỷ đang đẩy hàng triệu người vào tình trạng chết dần mòn. Hội nghị quốc tế về HIV/AIDS lần thứ 15 tại Bangkok (7-2004) cảnh báo số người bị chết vì căn bệnh này sẽ lên tới 25 triệu vào năm 2005 và 74 triệu vào năm 2015, nếu không có những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn sự lây lan.

Á châu hiện có 7 triệu người bị nhiễm và có nguy cơ rơi vào tình trạng lây lan đại trào, vì khu vực này thiếu một cách nghiêm trọng các bác sỹ chuyên về AIDS. Tại Campuchia vỏn vẹn 1 bác sĩ chuyên môn AIDS cho 3280 bệnh nhân HIV, tại Trung Quốc tình trạng còn bi đát hơn 1/4200 bệnh nhân, tại An độ tỉ lệ đó là 1/9010 và ở Việt Nam là 1/11.250.

Trường hợp nhiễm HIV đầu tiên ở Việt Nam được phát hiện vào tháng 12 năm 1990 và rất nhanh chóng chóng lây nhiễm ra khắp nước để trở thành quốc nạn. Chỉ riêng nơi các Trung tâm của thành phố HCM hiện đang quản thúc khoảng 32.000 các đối tượng cai nghiện ma tuý – nhiễm HIV/AIDS. Để đối chống lại cơn dịch thế kỷ này, thành phố đã chính thức xin Toà Tổng Giám mục cộng tác.

c)- Biên cương kinh nghiệm tôn giáo. Đối với Giáo hội Á châu nói chung và Giáo hội Việt Nam nói riêng, đây vừa là sứ vụ khẩn cấp, vừa là thách đố gay gắt. Thật vậy, Đức Giêsu đã sinh ra, sống, chết và phục sinh từ kẻ chết tại mảnh đất Á châu. Cũng từ mảnh đất Á châu này, qua việc rao giảng Tin Mừng nhờ quyền năng của Thánh Linh, Giáo hội đã cất bước ra đi để “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28, 19)...

Tuy nhiên, tại mảnh đất Á châu thân yêu này, một vùng đất được mệnh danh là chiếc nôi của các tôn giáo lớn, Kitô giáo chỉ đóng vai trò thiểu số và khiêm tốn nhất. So sánh với các vị giáo tổ khác, Đức Kitô vẫn là vị giáo tổ xa lạ nhất và có số tín đồ Á châu ít ỏi nhất.

Ngoài ra, cũng chính tại lục địa mênh mông của các tôn giáo này, “đang đặt ra một cách khẩn thiết vấn đề gặp gỡ giữa Kitô giáo với các nền văn hóa và tôn giáo rất lâu đời ở địa phương. Đây là một thách đố lớn lao cho công cuộc Phúc-âm-hóa, bởi vì những hệ thống tôn giáo như Phật giáo hay Ấn giáo cũng tự trình bày như rõ rệt mang tính cứu độ”.

d)- Biên cương sứ vụ “thừa sai” hay “truyền giáo” theo nghĩa cổ điển: đi đến những vùng đất và những nơi mà Tin Mừng chưa được rao giảng. Thư Mục vụ năm 2003 của Hội đồng Giám mục Việt Nam đặc biệt mời gọi mọi người Công giáo mạnh dạn đi đến những vùng đất chưa được nghe biết Tin Mừng: “Hãy mạnh dạn đến những môi trường mới. Có thể đó là những môi trường địa lý chưa bao giờ được nghe rao giảng Tin Mừng, những vùng đất chưa in dấu chân nhà truyền giáo”.

Nếu thiên niên kỷ thứ nhất loan báo Tin Mừng cho Au châu, thiên niên kỷ thứ hai cho Mỹ châu, thì Hội đồng Giám mục Việt Nam ước mong thiên niên kỷ thứ ba này sẽ “đem Tin Mừng cho anh chị em trên lục địa (Á châu) mênh mông này. Và đặc biệt cho anh chị em sống ngay trên quê hương Việt Nam thân yêu”. Phải chăng những vùng sâu, xa và cao của đất nước sẽ là những vùng ưu tiên?

e)- Biên cương văn hoá. Đây là những môi trường văn hoá, xã hội, khoa học kỹ thuật … đang cần ánh sáng Tin Mừng. Giữa Tin Mừng và văn hoá có tương quan hỗ tương: một mặt, Tin Mừng cần chiếu rọi vào các nền văn hoá, mặt khác, Tin Mừng cần được trình bày bằng chất liệu riêng của mỗi nền văn hoá. Đức Gioan Phaolô II diễn tả một cách thâm thuý mối tương quan sinh tử này: “Đức tin mà không trở thành Văn hoá là Đức tin chưa được chấp thuận hoàn toàn, chưa được suy tư thấu đáo và chưa được sống tới cùng”.

Huấn thị “Khởi sự lại từ Đức Kitô” yêu cầu chúng ta phải canh tân đời sống Đạo để mỗi cộng đoàn thực sự là một cộng đoàn rao giảng Tin Mừng: “Khởi sự lại từ Đức Kitô cũng có nghĩa là bước theo Ngài đến những nơi Ngài hiện diện qua công trình cứu chuộc và sống giữa chân trời bao la mà Ngài đã khai mở. Chính vì thế đời sống thánh hiến không thể chỉ hài lòng sống trong Giáo hội và sống cho Giáo hội. Đồng hành với Đức Kitô, người thánh hiến phải đi tới các Giáo hội Kitô khác, các tôn giáo khác và tất cả những ai chưa tuyên xưng một xác tín tôn giáo nào cả”.

Chính trong viễn tượng đó, Hội đồng Giám mục Việt Nam mời gọi các Kitô hữu đến với những môi trường đang cần ánh sáng Tin Mừng. “Đó là những môi trường văn hoá, chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật … Đó là những lãnh vực cần có sự hiện diện của Chúa Kitô, chứng tá của Hội Thánh và ánh sáng của tin Mừng. Hãy đến với những con người chưa được nghe rao giảng Tin Mừng, hoặc đã nghe mà chưa sống Tin Mừng. Hãy hiện diện trong mọi môi trường của nhân loại, vì không có gì của con người mà xa lạ với Hội Thánh”.

Đâu là chọn lựa và định hướng mục vụ tương lai của anh chị em Đa Minh?

--------------

[1] Hội Đồng Giám mục Việt Nam, Thư Chung, ngày 1.5.1980, số 9.

[2] Nguyễn Tài Thư (Chủ biên), Anh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 217.

[3] Ibidem, tr. 273-274.

[4] Diễn ngữ “tân phúc âm hoá” dịch sát nguyên ngữ Tây phương, nhưng trong cấu trúc tiếng Việt vẫn thấy nó thế nào ấy.

[5] Ibidem, số 36.

[6] Insegnamenti di Giovanni Paolo II, VI, 1 (1983), Editrice Vaticana, 1983, p.698.

[7] Gioan Phaolô II, Vai trò của người giáo dân, số 15.

[8] Ibidem, số 2. Xin coi Nguyễn Thái Hợp, Đường vào thần học về các tôn giáo, Houston, Texas, 2000; đặc biệt tạp chí Chia Sẻ, số 41 & 42, 2004.

[9] Hội đồng Giám mục Việt Nam, Sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội thánh Việt Nam hôm nay, 10.10.2003, số 8.

[10] Ibidem, số 6.

[11] Gioan Phaolô II, Văn thư Thành lập Hội đồng Giáo hoàng về Văn hoá, ngày 20.5.1982.

[12] Huấn thị “Khởi sự lại từ Đức Kitô” (2002), số 40.

[13] HĐGM- VN, Thư Mục vụ 2003, số 8.



ĐGM Phaolô Nguyễn Thái Hợp, OP

* Hãy trân trọng BÀI VIẾT và khích lệ NHẤN NÚT thay lời CẢM ƠN!

Nhấn In

TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:  Icon_minitime
DIỄN ĐÀN
TU ĐẠO VIỆT NAM
Sponsored content
Tước hiệu
online
online

Bài gửiTiêu đề: Re: TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:

TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:
* Hãy trân trọng BÀI VIẾT và khích lệ NHẤN NÚT thay lời CẢM ƠN!

Nhấn In

TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ:

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 1 trong tổng số 1 trang
XEM TIẾP CÁC BÀI VIẾT KHÁC:
BÀI VIẾT MỚI CÙNG CHUYÊN MỤC:
    BÀI VIẾT LIÊN QUAN:
      .::§QUY ĐỊNH DIỄN ĐÀN§::.

      Kính chào Quý vị thân mến trong Chúa Kitô!
      CHÀO MỪNG QUÝ VỊ ĐẾN VỚI TU ĐẠO TRUYỀN THÔNG CÔNG GIÁO VIỆT NAM HẢI NGOẠI, là một Diễn đàn hoàn toàn Độc lập vô vụ lợi đặc biệt chú trọng nhiều về mặt Tâm linh.
      Diễn Đàn rất hoan nghinh mọi ý kiến tham gia của Độc giả. Tuy nhiên, đề nghị Quý vị vui lòng soạn thảo Văn bản bằng tiếng Việt.
      >>Xem cách gõ tiếng Việt
      #Phần Bình luận tạo điều kiện cho việc Thảo luận, nêu và Giải đáp Thắc mắc, qua mọi chia sẻ đóng góp ý kiến từ Quý vị.

      §§§ Sau đây là những Quy Định đặc biệt cần Lưu ý: §§§

        *Quan tâm và tôn trọng những lời bình luận, đặc biệt là Cộng đoàn Dân Chúa nói chung.
        *Không dùng những ngôn từ thiếu lịch sự, có tính nhục mạ, bất kính, miệt thị. Vô tình tự đánh mất đạo đức phẩm giá bản thân và được coi là làm gương xấu cho người đời.
        *Không nhiễu sách, vu khống, nói sai sự thật, hoặc mạo nhận một ai. Làm mất danh dự, tư chất con người. Kể như phạm Điều Răn thứ Tám trong 10 Điều Răn Đức Chúa Trời.
        *Tất cả các ngôn ngữ lập trình (html), đường dẫn (link) và Quảng cáo xin miễn đăng.

        *Bài viết ký tên Tác giả không nhất thiết phản ảnh lập trường của Diễn đàn.
        *Nội dung những Lời bình sẽ được xem 24/24. Ban Biên Tập tôn trọng ý kiến của người viết, nhưng dành quyền sửa đổi lời văn, lược trích và tái bản, để phù hợp với thời đại mới.
        *Diễn Đàn có quyền từ chối miễn đăng hoặc xóa bỏ bất cứ Bài viết và Lời bình nào không phù hợp với các Quy Định nói trên.


      Chúa Giêsu sẽ vui và hài lòng khi thấy Bạn thao tác quyền hạn của Bạn trong việc Đăng Bài Mới hoặc Gửi Lời Bình, mong Bạn làm Thành viên, để cùng phát triển Diễn Đàn, đón nhận Tin Mừng Cứu Độ Chúa Giêsu Kitô cho chính mình và mang đến cho mọi người trên Thế giới.

      Kính mong Quý vị cảm thông và quan tâm. Chân thành cảm ơn. Cầu chúc Quý vị nhiều vui vẻ, hạnh phúc và an bình trong Chúa Kitô.

      TM/DIỄN ĐÀN

      Chú ý:
      * Bài viết sưu tầm nên ghi rõ nguồn hoặc viết (Sưu tầm).
      * Hãy nhấn nút để khích lệ người viết, khi thấy bài hay đáng trân trọng.

      Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
      TU ĐẠO :: www.tu-dao.de :: TƯ LIỆU :: Căn Bản Sống Đạo-

      Suy Niệm
      Lời Chúa

      Lời Ngài chính là đường dẫn ta về quê trời, là sự thật duy nhất giải thoát ta khỏi tội lỗi và sự chết, là sự sống đem lại hạnh phúc thật hôm nay và mai sau. Suy Niệm Lời Chúa là tiếp xúc, là nghĩ, là sống và hành động theo lời Ngài; và qua đó sẽ cảm nghiệm Ngài thực là đường, là sự thật và là sự sống vĩnh cửu cho ta.
      “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xẩy đến và đứng vững trước mặt Con Người”.
      (Lc 21, 36).

      FX.P
      Google
      TìmTrên web
      Trong DIỄN ĐÀN TU ĐẠO
      Liên lạc -Trang chủ -[Đăng Nhập]-Nhấn vào để:-[ Thoát ]
      Múi giờ GMT + 7. Hôm nay: Sat Apr 27, 2024 8:08 pm.
      Style by Phanxico Xavie TonyP.
      Vbb-ripped by Thien An Kenny Pham
      Powered by phpbb2 ® Version 2.0
      Copyright ©2012 - 2013, Forumotion Ltd.
      Tương thích với trình duyệt Firefox 3.6.8 và độ phân giải 1024x768
      Thông Tin Mạng Lưới Toàn Cầu
      DIỄN ĐÀN TU ĐẠO VIỆT NAM HẢI NGOẠI
      Copyright © 2012 Bản quyền thuộc về Tu Đạo Unna Germany
      Liên hệ: tudaode@yahoo.com, thienan_videostudio@yahoo.com
      Mở Chat Box
      Đầu trang
      Giữa trang
      Cuối trang
      Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất